Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1662/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03/3/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1977.

Địa chỉ: E816, tổ 40, KP5A, phường Long B, TP. B, tỉnh Đ.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1978.

Địa chỉ: E816, tổ 40, KP5A, phường Long B, TP. B, tỉnh Đ.

(Bà T có đơn xin vắng mặt, ông H vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

+ Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

Năm 2001, bà và ông Nguyễn Đức H tự nguyện kết hôn và đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường Long Bình, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Ngày 16/5/2001, UBND phường Long Bình đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 105, quyển 01 cho vợ chồng bà. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến thường xuyên gây gổ, cãi vã nhau; ông H không quan tâm chăm lo cho vợ con, thường xuyên chửi mắng, xúc phạm, đánh đập bà và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác; vợ chồng bà đã nhiều lần hàn gắn tình cảm gia đình nhưng mục đích của hôn nhân không đạt được. Hiện tại thì vợ chồng bà đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H, để cả hai giải thoát cho nhau.

Về con chung: Có 04 con chung tên Nguyễn Đức M, sinh ngày 15/02/2002 (đã mất); Nguyễn Đức T, sinh ngày 20/4/2003; Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 09/12/2006 và Nguyễn Đức L, sinh ngày 14/8/2009. Khi ly hôn, bà T có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A và cháu L; giao cháu T cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Bị đơn ông Nguyễn Đức H trình bày:

Năm 2001, ông và bà Lê Thị T tự nguyện kết hôn và đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường Long Bình, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Ngày 16/5/2001, UBND phường Long Bình đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 105, quyển 01 cho vợ chồng ông. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến thường xuyên gây gổ, cãi vã nhau; vợ chồng ông đã nhiều lần hàn gắn tình cảm gia đình nhưng mục đích của hôn nhân không đạt được. Hiện tại thì vợ chồng bà đã sống ly thân từ hơn 02 năm nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn thì ông cũng đồnh ý với yêu cầu của bà T.

Về con chung: Có 04 con chung tên Nguyễn Đức M, sinh ngày 15/02/2002 (đã mất); Nguyễn Đức T, sinh ngày 20/4/2003; Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 09/12/2006 và Nguyễn Đức L, sinh ngày 14/8/2009. Khi ly hôn, ông H có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T; giao cháu A và cháu L cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai:

- Về việc tuân thủ quy định của thẩm phán, thư ký, hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của bị đơn là không đúng quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà T được ly hôn ông H. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 09/12/2006 và Nguyễn Đức L, sinh ngày 14/8/2009 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung tên Nguyễn Đức T, sinh ngày 20/4/2003 cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời bà T và ông H không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết:

Bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Đức H, đối chiếu các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp ly hôn. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà T là nguyên đơn, ông H là bị đơn trong vụ án.

Ông H có hộ khẩu thường trú tại phường Long B, TP. B, tỉnh Đ. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2. Về thủ tục tố tụng khác: Bị đơn ông H đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ đến tham dự phiên tòa lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, không có lý do; căn cứ khoản 01, điểm b khoản 02 Điều 227, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt ông H.

3. Nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Nguyễn Đức H tự nguyện kết hôn, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường Long Bình, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 16/5/2001nên được xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Bà T xác định cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến thường xuyên gây gổ, cãi vã nhau; ông H không quan tâm chăm lo cho vợ con, thường xuyên chửi mắng, xúc phạm, đánh đập bà và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Hiện tại thì vợ chồng bà đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay; vợ chồng bà đã nhiều lần hàn gắn tình cảm gia đình nhưng mục đích của hôn nhân không đạt được.

Đồng thời, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần để vợ chồng bà T, ông H đoàn tụ nhưng bà T vẫn cương quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông H đã đến mức trầm trọng xuất phát từ việc vợ chồng không còn tin tưởng nhau, hiện tại thì vợ chồng bà cũng đã không còn chung sống nhau, sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay nhưng vẫn không thể hàn gắn được tình cảm; vợ chồng ông, bà đã không qua lại để hỏi thăm giúp đỡ lẫn nhau, không còn sự quan tâm chăm sóc để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, điều này thể hiện mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông H đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng đã không còn, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được; ngoài ra, theo biên bản xác minh tại địa phương thì được biết vợ chồng bà T, ông H cũng thường xuyên mâu thuẫn nhau; đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án thì ông H cũng đồng ý ly hôn với yêu cầu của bà T. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy việc thuận tình ly hôn giữa bà T và ông H là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông bà là phù hợp.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống, vợ chồng bà T, ông H có 04 con chung tên Nguyễn Đức M, sinh ngày 15/02/2002 (đã mất); Nguyễn Đức T, sinh ngày 20/4/2003; Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 09/12/2006 và Nguyễn Đức L, sinh ngày 14/8/2009. Khi ly hôn, bà T có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu a và cháu l; giao cháu t cho ông h trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; tạm thời, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Đối với con chung khi ly hôn ông K có ý kiến được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T; giao cháu A và cháu L cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; tạm thời, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Ngoài ra, theo ý kiến của cháu T sau khi bà T, ông H ly hôn thì cháu T có nguyện vọng được ở cùng ông H; cháu A và cháu L đều có nguyện vọng được ở cùng T; đồng thời để tránh gây xáo trộn về mặt tâm sinh lý và ảnh hưởng đến việc học tập của các con chung về sau. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy giao con chung tên Nguyễn Đức T, sinh ngày 20/4/2003 cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 09/12/2006 và Nguyễn Đức L, sinh ngày 14/8/2009 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời bà T và ông H không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 68, 227, 238 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T đối với bị đơn ông Nguyễn Đức H về việc tranh chấp ly hôn.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Lê Thị T và ông Nguyễn Đức H.

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 09/12/2006 và Nguyễn Đức L, sinh ngày 14/8/2009 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng;

giao con chung tên Nguyễn Đức T, sinh ngày 20/4/2003 cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời bà T và ông H không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà T, ông H được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0008749 ngày 08/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Bà T đã nộp đủ tiền án phí.

Bà T, ông H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về