Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về kiện xin ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 17/9/2020 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:158/2020/TLST-HNGĐ ngày 09/6/2020 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Anh Nguyễn Thành L, sinh năm: 1990

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh H. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị Mỹ L, sinh năm: 1991

Địa chỉ: Số nhà X đường L, Tổ dân phố Y, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt lần thứ 2, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Về quan hệ hôn nhân:

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 02/6/2020, được bổ sung tại bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Nguyễn Thành L trình bày: Anh và chị Phạm Thị Mỹ L có đăng ký kết hôn vào ngày 29/9/2014 tại UBND xã Đ, huyện Đ, tỉnh H, kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng ba mẹ đẻ của anh L, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Đến đầu năm 2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Hai bên gia đình đã tổ chức hòa giải nhưng không có kết quả. Ngày 13/02/2016, chị L bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Vợ chồng bắt đầu sống ly thân kể từ đó cho đến nay, bỏ mặc không ai quan tâm đến ai, không liên lạc với nhau. Nay anh L thấy mâu thuẫn không hòa giải được, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên mong muốn được ly hôn với chị L.

- Về con chung: Anh L khai vợ chồng chưa có con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Anh L khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về bị đơn Phạm Thị Mỹ L: Sau khi thụ lý, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án, nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn đến Tòa để giải quyết vụ án nhưng chị L không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn cho Tòa án cũng không đến Tòa án để hòa giải, giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp thông báo thụ lý và giấy triệu tập cho chị L nhưng chị L từ chối không nhận. Sau đó, Tòa án tiến hành phối hợp với tổ trưởng tổ dân phố 1 và đại diện UBND phường H, nơi chị L hiện đang cư trú để tống đạt các văn bản tố tụng cho chị L nhưng chị L không hợp tác, liên tục từ chối nhận văn bản, từ chối làm việc. Do đó, Tòa án đã lập biên bản về việc không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho chị L và tiến hành niêm yết các thủ tục tố tụng tại Tổ dân phố 1 và UBND phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Do chị L từ chối nhận văn bản tố tụng và không đến Tòa án để giải quyết vụ án nên không thể tiến hành phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không thể tiến hành hòa giải được. Ngày 11/8/2020, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2020/QĐXXST-HNGĐ đưa vụ án ra xét xử vào ngày 27/8/2020 và tiến hành niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên tòa tại nơi chị L cư trú. Tại phiên tòa ngày 27/8/2020, chị L vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án đã hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa có thông báo ấn định địa điểm, thời gian mở lại phiên tòa lần thứ hai thay cho giấy triệu tập đến phiên tòa đã được Tòa án niêm yết công khai tại Tổ dân phố 1 và UBND phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, nơi bị đơn cư trú. Tại phiên tòa ngày 17/9/2020, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Thành L có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết ly hôn theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự là nơi bị đơn chị Phạm Thị Mỹ L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số nhà X đường L, Tổ dân phố Y, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Xét quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã làm đầy đủ các thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; thực hiện tống đạt qua bưu chính, tống đạt trực tiếp và niêm yết công khai theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 173 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn Phạm Thị Mỹ L có đăng ký hộ khẩu và hiện đang sinh sống tại địa chỉ số nhà X đường L, Tổ dân phố Y, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, nhưng qua nhiều lần Tòa án và chính quyền địa phương đến để tống đạt các văn bản tố tụng, chị L đều cố tình không hợp tác, từ chối nhận các văn bản của Tòa án. Như vậy bị đơn chị Phạm Thị Mỹ L đều vắng mặt trong quá trình hòa giải và xét xử vụ án, tức là bị đơn cố tình từ bỏ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 68, 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự, đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Phạm Thị Mỹ L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Anh Nguyễn Thành L và chị Phạm Thị Mỹ L đã xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Lẽ ra, anh chị phải biết thương yêu, chung thủy, nhường nhịn, tôn trọng nhau, cùng nhau chia sẻ khó khăn xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ngược lại, anh chị đã không làm được điều đó để giữ gìn hôn nhân bền vững. Nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, thiếu sự sẻ chia trách nhiệm, sau khi mâu thuẫn phát sinh, chị L bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ ngày 13/02/2016 cho đến nay, bỏ mặc, không có trách nhiệm gì với nhau. Anh L xin ly hôn, chị L cũng bỏ mặc không đến Tòa án để được hòa giải và không có biện pháp gì để níu kéo hạnh phúc. Điều này chứng tỏ rằng mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng không thể khắc phục, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể sống chung hạnh phúc nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho vợ chồng ly hôn là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung:

Quá trình chung sống anh L và chị L không có con chung.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung:

Anh L khai quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, chị L không đến Tòa án cũng không gửi văn bản ý kiến của mình về vấn đề tài sản chung nên Tòa án không xem xét.

[2.4] Về án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 147 BLTTDS; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng các Điều 51, 56Luật Hôn nhân và gia đình;

- Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, cho anh Nguyễn Thành L được ly hôn với chị Phạm Thị Mỹ L.

2. Về nuôi con chung: Không có.

3. Về tài sản chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Thành L phải nộp số tiền 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2017/0006491 ngày 09/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới.

Án xử công khai, đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 17/9/2020) để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về