Bản án 35/2020/DS-PT ngày 14/01/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 35/2020/DS-PT NGÀY 14/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

Ngày 14 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 488/2019/TLPT-DS ngày 15 tháng 10 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 360/2019/DS-ST ngày 28/08/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh bị Công ty TNHH LHP là bị đơn kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6136/2019/QĐXXPT-DS ngày 23 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1966 Địa chỉ: 126 PCĐ, Phường B, Quận MM, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Bùi Văn T1, sinh năm 1982 là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn; Địa chỉ: 34 TX, Phường T, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền số công chứng 000008528 ngày 05/6/2017 tại Văn phòng Công chứng Thủ Đức). (Có mặt)

2. Bị đơn: Công ty TNHH LHP Địa chỉ: 3E/12 PQ, Phường H, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Thanh D, năm sinh 1970 là người đại diện theo pháp luật của bị đơn. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Trung H – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đinh Tấn K – Chủ Doanh nghiệp Tư nhân Xây dựng Thương mại TL Địa chỉ: 423/4A NK, Phường C, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Phan Vĩnh K1 – sinh năm 1972 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ: 40 đường số B, khu phố H, phường AL, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Hợp đồng ủy quyền số công chứng 29537 ngày 17/8/2018 tại Phòng Công chứng Số 3 Thành phố Hồ Chí Minh)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 01 tháng 6 năm 2017 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích T do ông Bùi Văn T1 là người đại diện hợp pháp trình bày:

Năm 2008, bà Nguyễn Thị Bích T có chuyển nhượng quyền sử dụng đất địa chỉ số 9 PPT, Phường MM, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh cho Doanh nghiệp tư nhân TL do ông Đinh Tấn K làm giám đốc (sau đây viết tắt là DNTN TL) để thực hiện dự án Trung tâm Thương mại và căn hộ TL- Bảy Hiền Town, số tiền DNTN TL còn thiếu bà T là 10.000.000.000 đồng.

Ngoài ra, năm 2010, ông Đinh Tấn K đại diện cho DNTN TLcó vay của bà T số tiền 5.000.000.000 đồng bằng hợp đồng vay tiền có biện pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba là Ngân hàng TMCP An Bình, kèm theo cam kết thanh toán lãi và gốc đúng hạn với Ngân hàng An Bình. Số tiền vay này đến nay vẫn chưa thanh toán đầy đủ gốc và lãi như cam kết, còn bà T phải thanh toán lãi và gốc cho Ngân hàng An Bình.

Do gặp khó khăn trong kinh doanh nên ngày 15/3/2011 DNTN TL đã chuyển toàn bộ dự án nêu trên cho Công ty TNHH LHP theo Thỏa thuận chuyển nhượng dự án số 139/TT-TL/2011, theo đó công ty TNHH LHP đồng ý thanh toán tất cả các khoản nợ của DNTN TL cho bà T. Ngày 15/11/2013, bị đơn có làm Biên bản bàn giao giám đốc – phụ lục 3 – tổng kết công nợ phải trả đến ngày 15/11/2013 với nội dung: Tổng kết công nợ phải trả cho bà T là 10.000.000.000 đồng tiền chuyển quyền sử dụng nhà đất và 5.000.000.000 đồng Doanh nghiệp TL vay riêng. Cùng ngày 15/11/2013, bị đơn đã thanh toán cho bà T 5.000.000.000 đồng tiền chuyển quyền sử dụng đất.

Ngày 01/6/2017, bà T khởi kiện yêu cầu công ty LHP trả số tiền 10.000.000.000 đồng kèm theo tiền lãi tạm tính là 1.500.000.000 đồng, tổng cộng: 11.500.000.000 đồng.

Nguyên đơn xác định đối với số tiền 10.000.000.000 đồng tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bị đơn đã thanh toán cho bà T nhiều lần như sau:

Ngày 15/11/2013, bị đơn đã thanh toán cho bà T 5.000.000.000 đồng. Ngày 21/11/2014 thanh toán 100.000.000 đồng.

Ngày 06/02/2015 thanh toán 200.000.000 đồng. Ngày 23/12/2015 thanh toán 100.000.000 đồng. Ngày 05/02/2016 thanh toán 100.000.000 đồng. Tổng cộng: 5.500.000.000 đồng.

Ti phiên tòa ngày 05/01/2018, đại diện bà T bổ sung yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu bị đơn trả cho bà T số tiền 4.700.000.000 đồng mà bà T đã thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà tại số 126 PCĐ, Phường B, Quận MM, Thành phố Hồ Chí Minh để vay giùm cho bị đơn tại Ngân hàng TMCP An Bình ngày 03/6/2011.

Ngày 21/9/2018 bà T rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Không yêu cầu công ty TNHH LHP trả số tiền 5.000.000.000 đồng mà bà đã cho DNTN TLvay và số tiền 4.700.000.000 đồng bà vay giùm Công ty TNHH LHP (số tiền 4.700.000.000 đồng mới chỉ là trình bày yêu cầu chưa có đơn khởi kiện bổ sung). Bà sẽ khởi kiện vụ án khác sau này.

Theo bản tự khai ngày 27/11/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án Bị đơn Công ty TNHH LHP do ông Nguyễn Thái Hùng là người đại diện hợp pháp trình bày:

Công ty TNHH LHP có nhận chuyển nhượng dự án “Cao ốc Bảy Hiền” từ DNTN TLtheo Hợp đồng chuyển nhượng số 139/TT-TL/2011 ngày 15/3/2011, dự án tọa lạc tại địa chỉ số 9 Phạm Phú Thứ, Phường 11, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Bích T là chủ khu đất số 9 PPT, Phường MM, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. DNTN TL còn nợ bà T số tiền 10.000.000.000 đồng.

Theo Điều 2.2.3 Hợp đồng số 139 nêu trên thì trường hợp bà Nguyễn Thị Bích T đồng ý cho DNTN TL chuyển nghĩa vụ cho công ty TNHH LHP thì ba bên lập biên bản ký xác nhận việc chuyển nghĩa vụ trả nợ này. Nếu bà T không đồng ý thì Công ty TNHH LHP sẽ ứng trước cho DNTN TL để hoàn trả cho bà T. Tuy nhiên, bà T không đồng ý chuyển nghĩa vụ trả nợ như trên mà muốn nhận trả nợ trực tiếp từ DNTN Thăng Long, ngoài khoản tiền 5.000.000.000 đồng công ty LHP chuyển thanh toán thì số tiền còn lại bà T sẽ liên hệ với DNTN TLđể nhận thanh toán, không liên quan gì đến công ty TNHH LHP. Ngày 19/11/2015, Công ty LHP và bà Nguyễn Thị Bích T đã lập biên bản làm việc xác nhận hai bên đã thanh toán đầy đủ công nợ và góp vốn dự án, không còn vướng mắc gì. Tuy nhiên, bị đơn vẫn chấp nhận trả thay cho DNTN TL số tiền này với điều kiện dự án theo Hợp đồng số 139/TT-TL/2011 ngày 15/3/2011 hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng.

Ngoài khoản nợ nêu trên thì bị đơn không chịu trách nhiệm bất kỳ khoản nợ nào giữa DNTN TL với nguyên đơn và bị đơn không đồng ý thanh toán khoản vay mà nguyên đơn vay của Ngân hàng TMCP An Bình.

Về số tiền 5.000.000.000 đồng bà T cho rằng ông Đinh Tấn K đại diện DNTN TL vay của bà năm 2010 thì đây là khoản nợ giữa DNTN TL với bà T, nằm ngoài dự án và các thỏa thuận giữa DNTN TL và công ty TNHH LHP, do đó Công ty TNHH LHP không có nghĩa vụ trả nợ thay cho DNTN TL.

Theo bản tự khai ngày 01/10/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Tấn K – Chủ Doanh nghiệp Tư nhân Xây dựng Thương mại TL, do ông Đỗ Phan Vĩnh K1 là người đại diện hợp pháp trình bày: DNTN TL là chủ dự án Trung tâm thương mại và căn hộ TL theo Quyết định số 03/QĐ-SCD-PTN ngày 08/01/2009 của Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình thực hiện dự án, ngày 15/06/2009 DNTN TL đã ký biên bản xác nhận công nợ với nội dung còn nợ bà T số tiền 10.000.000.000 đồng. Ngày 15/03/2011, DNTN TL và công ty TNHH LHP ký kết thỏa thuận với nội dung DNTN TL chuyển nhượng toàn bộ dự án nói trên cho công ty TNHH LHP. Để giải quyết quyền lợi của bà T ngày 29/03/2011 các bên liên quan đã đồng ý ký kết thỏa thuận về việc chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ mua nhà và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án. Theo đó thì kể từ ngày thỏa thuận ba bên được ký kết thì biên bản công nợ ngày 15/06/2009 hết giá trị thực hiện. Công ty LHP sẽ chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ 10.000.000.000 đồng và lãi phát sinh cho bà T. Vì vậy, giữa DNTN TLvà bà T không còn quyền lợi và nghĩa vụ gì với nhau kể từ ngày thỏa thuận ba bên được ký kết.

Nay bà T khởi kiện yêu cầu công ty TNHH LHP trả nợ thì DNTN TL không có ý kiến, cũng không có yêu cầu gì trong vụ án. Đề nghị Tòa án căn cứ vào chứng cứ vụ án và quy định của pháp luật để xem xét yêu cầu của bà T.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2018/DS-ST ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình đã tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích T: Buộc bị đơn Công ty TNHH LHP trả cho bà T số tiền 8.656.000.000 đồng, trong đó bao gồm tiền nợ gốc 4.600.000.000 đồng và tiền lãi 4.056.000.000 đồng.

2. Tách yêu cầu khởi kiện của bà T buộc Công ty TNHH LHP phải trả khoản vay được bảo đảm bởi bên thứ ba tại Ngân hàng TMCP An Bình với số tiền 4.700.000.000 đồng thành một vụ án dân sự khác nếu các đương sự có tranh chấp.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 455/2018/DS-PT ngày 10/5/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH LHP: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2018/DS-ST ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận Tân Bình.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 360/2019/DS-ST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình quyết định:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích T:

Công ty TNHH LHP có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Bích T số tiền là 7.687.750.000 (Bảy tỷ sáu trăm tám mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi ngàn) đồng, bao gồm 4.300.000.000 đồng tiền nợ gốc và 3.387.750.000 đồng tiền lãi tạm tính đến ngày 28/8/2019, để chấm dứt nghĩa vụ trả nợ phát sinh theo Thỏa thuận về việc chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ mua nhà và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án ngày 29/3/2011.

Thanh toán một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2/ Đình chỉ giải quyết yêu cầu Công ty TNHH LHP trả số tiền 5.000.000.000 đồng và tiền lãi xuất phát từ khoản nợ của ông Đinh Tuấn K chủ Doanh nghiệp Tư nhân Xây dựng Thương mại TL vay của bà Nguyễn Thị Bích T.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 23/9/2019 bị đơn Công ty TNHH LHP kháng cáo yêu cầu hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 360/2019/DS-ST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình với các lý do:

Về tố tụng: Căn cứ vào Điều 178 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa cấp sơ thẩm tống đạt không hợp lệ nên người đại diện theo pháp luật không nhận được bất kỳ giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa vì không biết ngày Tòa xét xử nên không có mặt bị đơn do đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

Về nội dung : Không đồng ý nội dung trong bản án tuyên buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích T số tiền là 7.687.750 đồng vì Tòa cấp sơ thẩm xem xét các chứng cứ không đúng theo quy định tại Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa cấp sơ thẩm thẩm cho rằng biên bản làm việc ngày 19/11/2015 không liên quan gì đến việc chuyển giao nghĩa vụ thanh toán số tiền 10.000.000.000 đồng là không xem xét khách quan toàn diện vụ án vì theo biên bản này hai bên không còn nợ gì nhau.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không rút yêu cầu kháng cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn, hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Tân Bình với lý do Tòa án cấp sơ thẩm đã không tống đạt các văn bản tố tụng cho phía bị đơn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Đồng thời “Thỏa thuận chuyển nhượng dự án” số 139/TT-TL/2011 ngày 15/3/2011 là không có giá trị vì chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Do đó, Công ty TNHH LHP không phải chịu nghĩa vụ thanh toán cho bà T theo thỏa thuận. Bên cạnh đó, bản án sơ thẩm tuyên buộc bị đơn Công ty TNHH LHP trả cho bà T số tiền 7.687.750.000 đồng là không phù hợp vì ngày 19/11/2015, bà T và Công ty TNHH LHP đã ký biên bản thừa nhận Công ty LHP không có nợ bà T về khoản chuyển nhượng nhà đất số 9 PPT và vấn đề góp vốn. Tòa cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự khi xem xét đánh giá chứng cứ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Chủ tọa, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của các đương sự và về nội dung như sau:

+ Về tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các bên đương sự đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét thấy nội dung kháng cáo của bị đơn không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Toà án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và giấy triệu tập đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm nhưng phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đinh Tấn K – Chủ Doanh nghiệp Tư nhân Xây dựng Thương mại TL có ông Đỗ Phan Vĩnh K1 là người đại diện hợp pháp và ông Trần Thanh D là người đại diện theo pháp luật của bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2] Về kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH LHP [2.1] Xét, việc bị đơn cho rằng trong suốt quá trình giải quyết người đại diện theo pháp luật là ông Trần Thanh D không nhận được bất kỳ văn bản tố tụng nào của Tòa tống đạt hợp lệ.

Thấy, lý do kháng cáo này của bị đơn là không đúng vì ngoài các văn bản do người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Nguyễn Trung H ký nhận thì tại các Bút lục số 260, 261, 263, 264, 268, 269 thể hiện sau khi ông H có Văn bản thông báo về việc chấm dứt ủy quyền,Tòa cấp sơ thẩm đã tống đạt hợp lệ cho phía bị đơn tham gia các phiên hòa giải, Thông báo kết quả kiểm tra giao nộp công khai chứng cứ, Giấy triệu tập, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa… Tất cả các văn bản này đều được Tòa cấp sơ thẩm tống đạt trực tiếp tại địa chỉ số 3E/12 PQ, Phường H, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh là trụ sở của Công ty LHP và nhân viên văn thư của Công ty này đều ký và cam kết giao lại cho người đại diện theo pháp luật của Công ty.

[2.2] Xét, việc bị đơn kháng cáo không đồng ý nội dung bản án tuyên buộc bị đơn Công ty TNHH LHP trả cho bà T số tiền 7.687.750.000 đồng là không phù hợp, vì ngày 19/11/2015, bà T và Công ty TNHH LHP đã ký biên bản thừa nhận Công ty LHP không có nợ bà T về khoản chuyển nhượng nhà đất số 9 PPT và vấn đề góp vốn. Bị đơn cho rằng Tòa cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự khi xem xét đánh giá chứng cứ.

Thy, tại bản tự khai ngày 27/11/2017 (Bút lục 143,144) do ông Nguyễn Thái H1 là người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH LHP khai: “ … Ngày 19/11/2015, Công ty LHP và bà Nguyễn Thị Bích T đã lập biên bản làm việc xác nhận hai bên đã thanh toán đầy đủ công nợ và góp vốn dự án, không còn vướng mắc gì. Tuy nhiên, bị đơn vẫn chấp nhận trả thay cho DNTN TL số tiền này với điều kiện dự án theo Hợp đồng số 139/TT-TL/2011 ngày 15/3/2011 hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng”.

Như vậy, ngoài số tiền 5.000.000.000 đồng Công ty TNHH LHP thanh toán ngày 15/11/2013 thì sau đó lại tiếp tục trả 03 kỳ với số tiền là 500.000.000 đồng và sau khi ký Biên bản làm việc ngày 19/11/2015 phía Công ty TNHH LHP vẫn tiếp tục thanh toán cho bà T 02 kỳ với tổng số tiền là 200.000.000 đồng.

Thy, tại mục [2.1] của bản án dân sự sơ thẩm số 360/DSST ngày 28/8/2019 Tòa cấp sơ thẩm đã nhận định:

…Căn cứ Thỏa thuận về việc chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ mua nhà và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đề ngày 29/3/2011 (do DNTN TLcung cấp Bút lục 276) giữa Bên A: DNTN TL, Bên B: Công ty TNHH LHP và Bên C: bà Nguyễn Thị Bích T thể hiện:

1. Cho đến ngày ký kết Thỏa thuận này, TL còn nợ bà Nguyễn Thị Bích T số tiền mua nhà (và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất)…là 10.000.000.000 đồng(mười tỷ đồng)… 3. Bên A, bên B, bên C thống nhất rằng kể từ ngày các bên ký bản thỏa thuận này … Bên B sẽ chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng) và lãi phát sinh cho bên C. Bên A sẽ thanh toán lại số tiền này cho bên B theo thỏa thuận riêng của bên A và bên B”.

….Căn cứ lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn và Bảng sao kê tài khoản của bà T thể hiện ngày 15/11/2013, Bị đơn đã thanh toán cho bà T 5.000.000.000 đồng, tiếp đó các ngày 21/11/2014 thanh toán 100.000.000 đồng, ngày 06/02/2015 thanh toán 200.000.000 đồng, ngày 26/11/2015 thanh toán số tiền 200.000.000 đồng, ngày 23/12/2015 thanh toán 100.000.000 đồng và ngày 05/02/2016 thanh toán 100.000.000 đồng. Tổng cộng bị đơn đã trả được cho nguyên đơn 5.700.000.000 đồng. Vì vậy, có cơ sở xác định công ty TNHH LHP còn nợ bà T 4.300.000.000 đồng tiền nợ gốc”.

Xét thấy, việc Tòa cấp sơ thẩm nhận định như trên là chính xác đúng pháp luật. Vì giữa các bên đã ký Thỏa thuận về việc chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ mua nhà và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án ngày 29/3/2011. Đây chính là sự chuyển giao nghĩa vụ từ người có nghĩa vụ sang người thế nghĩa vụ đối với người có quyền theo đúng quy định tại Điều 315 Bộ luật dân sự và các bên đều xác định rõ rang số nợ trên là nợ tiền mua nhà và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Việc bị đơn kháng cáo cho rằng Tòa sơ thẩm không xem xét đánh giá chứng cứ quan trọng là Biên bản làm việc ngày 19/11/2015 giữa bà T và ông Vũ Anh T2 – đại diện công ty TNHH LHP là không có căn cứ bởi như đã phân tích ở trên. Sau khi ký bản thỏa thuận ngày 29/3/2011 các bên đã thực hiện thỏa thuận này, thể hiện sau khi ký biên bản làm việc ngày 19/11/2015, phía công ty LHP vẫn tiếp tục thanh toán khoản nợ trên cho bà T 02 kỳ với số tiền là 200.000.000 đồng và trong các giấy ủy nhiệm chi đều ghi nội dung “chi trả tiền theo Biên bản bàn giao giám đốc ngày 15/11/2013, công nợ cũ TL chuyển qua”. Phía Công ty LHP cũng không đưa ra được bằng chứng nào chứng minh bà T không đồng ý để Công ty LHP trực tiếp trả số tiền nêu trên cho bà T. Hơn nữa biên bản làm việc ngày 19/11/2015 không có giá trị vì bà T làm việc với ông Vũ Anh T2 đại diện công ty LHP nhưng ông Tuấn không có giấy ủy quyền của người đại diện theo pháp luật, không có đóng dấu Công ty trong biên bản làm việc này.

[2.3] Xét, lý do người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đưa ra là Văn bản “Thỏa thuận chuyển nhượng dự án” số 139/TT-TL/2011 ngày 15/3/2011 không có giá trị vì chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là không có cơ sở. Vì giữa Doanh nghiệp tư nhân TLvà Công ty LHP tại thời điểm này chưa thể ký hợp đồng chuyển nhượng dự án theo quy định pháp luật nên mới ký thoả thuận chuyển nhượng dự án số 139/TT-TL/2011.

Thấy, việc ký thoả thuận chuyển nhượng dự án số 139/TT-TL/2011 ngày 15/3/2011 là hoàn toàn tự nguyện và trong quá trình thực hiện thỏa thuận phía bị đơn là bên chủ động thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà T với số tiền như đã nêu ở trên. Trong thỏa thuận 139/TT-TL/2011 giữa các bên không ghi thời hạn phải thực hiện việc ký hợp đồng chuyển nhượng theo quy định cho nên đến nay thỏa thuận này vẫn giữ nguyên giá trị và thỏa thuận này là giữa Doanh nghiệp tư nhân TLvà Công ty LHP. Tại thời điểm từ khi ký thỏa thuận 139/TT-TL/2011 đến nay giữa Doanh nghiệp tư nhân TLvà Công ty LHP không có tranh chấp gì, hơn nữa nguyên đơn cũng không tranh chấp gì về thỏa thuận 139/TT-TL/2011 nên lý do luật sư đưa ra là không có căn cứ chấp nhận.

Xét, yêu cầu kháng cáo của bị đơn nêu trên là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử xét giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 148, 227, 228, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 360/2019/DS - ST ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

1.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích T:

Công ty TNHH LHP có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Bích T số tiền là 7.687.750.000 (Bảy tỷ sáu trăm tám mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi ngàn) đồng, bao gồm 4.300.000.000 đồng tiền nợ gốc và 3.387.750.000 đồng tiền lãi tạm tính đến ngày 28/8/2019, để chấm dứt nghĩa vụ trả nợ phát sinh theo Thỏa thuận về việc chuyển nhượng nghĩa vụ trả nợ mua nhà và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án ngày 29/3/2011. Thanh toán một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

1.2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu Công ty TNHH LHP trả số tiền 5.000.000.000 đồng và tiền lãi suất phát sinh từ khoản nợ của ông Đinh Tuấn K - chủ Doanh nghiệp Tư nhân Xây dựng Thương mại TL vay của bà Nguyễn Thị Bích T.

1.3. Án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty TNHH LHP phải chịu án phí sơ thẩm là 115.687.750 (Một trăm mười lăm triệu sáu trăm tám mươi bảy ngàn bảy trăm năm mươi) đồng.

Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị Bích T tiền tạm ứng án phí đã nộp là 59.750.000 (Năm mươi chín triệu bảy trăm năm mươi ngàn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0006328 ngày 05/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty TNHH LHP phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã đóng theo biên lai thu số AA/2018/0039182 ngày 23/9/2019 do Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình lập.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/DS-PT ngày 14/01/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ

Số hiệu:35/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về