Bản án 35/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với:

Bị cáo Lê Ngọc C, sinh ngày 07/10/1968 tại thành phố V, tỉnh N. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Khối P, phường V, thành phố V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Lê Ngọc Đ và con bà: Đoàn Thị L Vợ: Nguyễn Thị Thu G, có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 18/12/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 06 tháng tù về tội "Gá bạc", 03 tháng tù về tội "Đánh bạc" (Tổng hợp hình phạt là 09 tháng tù) tại Bản án số 547/HSST ngày 18/12/2012.

Ngày 18/3/2013 Tòa án nhân dân thàn phố V xử phạt 03 tháng tù về tội "Đánh bạc" tại bản án số 51/2013/HSST ngày 18/3/2013. Chấp hành xong hình phạt của 02 bản án ngày 16/02/2015.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua quan hệ bạn bè Lê Ngọc C quen biết người đàn ông tên V ở huyện N, tỉnh N (C không biết rõ họ tên, địa chỉ cụ thể). C và V đã nhiều lần sử dụng ma túy với nhau. Khoảng 17 giờ ngày 23/10/2018 ông V có liên lạc cho Lê Ngọc C và nói "Lát anh xuống V", C nói với ông V "Có tý gì không (ý nói có ma túy không) cho tôi tý", ông V nói có một ít (ý nói có một ít ma túy). Đến khoảng 21 giờ ngày 23/10/2018 ông V có mặt tại thành phố V và hẹn gặp Lê Ngọc C tại đường P, phường Q, thành phố V để cho C ma túy. Khoảng 10 phút sau, Lê Ngọc C có mặt tại điểm hẹn và gặp ông V, ông V đã đưa cho Lê Ngọc C một bao Potylen bên trong có chứa ma túy đá. Lê Ngọc C cầm gói ma túy cho vào ví da trong túi quần trước bên phải của C để đưa đi sử dụng. Khi đi đến trước số nhà 235, đường P, khối 10, phường Q, thành phố V, tỉnh N thì bị Đội cảnh sát kinh tế Công an thành phố V phát hiện bắt quả tang, thu giữ bên trong ví để trong túi quần trước bên phải của Lê Ngọc C 01 bao Potylen trong đó chứa ma túy đá.

Ngày 24/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số 1170/KL-PC09(MT) ngày 27 tháng 10 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Ngọc C gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Ngọc C có khối lượng là 0,300 gam.

Cáo trạng số 47/CT-VKS-HS ngày 16/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Lê Ngọc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Lê Ngọc C từ 15 (Mười lăm) tháng tù đến 18 (Mười tám) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS, điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy đã thu giữ; áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc C đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Lê Ngọc C thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 10 phút, ngày 23/10/2018, tại số 235, đường P, khối 10, phường Q, thành phố V, tỉnh N Lê Ngọc C có hành vi cất giấu 01 (một) gói ma túy (Methamphetamin) có khối lượng 0,300 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Số ma túy này bị cáo C được một người đàn ông tên V (không rõ họ tên, địa chỉ) cho để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo Lê Ngọc C phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã đi vào con đường phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa bị cáo khai bố bị cáo có công với cách mạng nhưng quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo không có tài liệu gì cung cấp nên Tòa án không có cơ sở để xem xét. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lê Ngọc C lao động tự do thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo C là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

[6]. Đối với người đàn ông tên Vinh cho bị cáo ma túy do không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Ngọc C 15 (Mười lăm) tháng tù về tội "tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23/10/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (Methamphetamin), ghi thu giữ vật chứng của Lê Ngọc C hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 119 ngày 17/01/2019.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và bsử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Ngọc C phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Lê Ngọc C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về