Bản án 35/2019/HS-ST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Quang V, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1971, tại huyện L, tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: Khu 17, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn N (Đã chết) và bà Đỗ Thị S; có vợ: Lê Thị N, sinh năm 1972, có 02 con sinh năm 1994 và năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án Hình sự sơ thẩm số 29/2014/HSST ngày 08/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba xử phạt Trần Quang V 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” (Án tích đã được xóa đối với V). Bị cáo tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 50 phút ngày 05/4/2019, Công an huyện Lâm Thao phối hợp với Công an xã T, huyện L làm nhiệm vụ tại khu 16, xã T thì phát hiện nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra thì người thanh niên này khai tên là Trần Quang V, sinh năm 1971 ở khu 17, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ và tự giác giao nộp 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng mặt trong màu trắng có chứa chất bột cục màu trắng. Vạn khai đó là ma túy Heroine tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với Trần Quang V và thu giữ, niêm phong gói giấy do Trần Quang V giao nộp theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 508/KLGĐ ngày 08/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

“Mẫu chất bột cục mầu trắng trong bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,215 gam, loại: Heroine.

Heroine: số thứ tự: 9, Danh mục I, Nghi định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Quá trình điều tra, Trần Quang V khai nhận: khoảng 15 giờ 00 phút ngày 05/4/2019 Trần Quang V dùng số thuê bao 0379.348.293 của mình gọi điện cho Nguyễn Bá G, sinh năm 1989 ở khu 13, xã X theo số thuê bao 0977.149.669 rủ nhau góp tiền cùng mua ma túy về để sử dụng. G góp 100.000 đồng, V góp 80.000 đồng sau đó cả hai đi đến khu vực đường sắt cắt ngang thuộc khu 16, xã T để mua ma túy. Tại đây, G và V gặp một người nam giới không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể, G và người nam giới đó trao đổi sau đó G đi trước còn V đứng lại chờ lấy ma túy. Khi người nam giới quay lại đã đưa cho V 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, V xác định đó là ma túy Hê rô in nên cầm gói ma túy và đi bộ ra đường để chờ G quay lại đón thì bị kiểm tra, phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính như đã nêu trên.

Căn cứ lời khai của Trần Quang V, Cơ quan điều tra đã triệu tập Nguyễn Bá G, sinh năm 1989 ở khu 13, xã X, huyện L lên làm việc. Nguyễn Bá G khai nhận: khoảng 16 giờ ngày 05/4/2019 V có nhờ G đưa đến khu vực xã T, khi đi đến đoạn đường tàu cắt ngang thuộc khu 16, xã T thì V xuống xe còn V đi đâu G không biết, sau đó G đi về nhà. Quá trình đối chất với V, G cũng không thừa nhận lời khai của V là đúng.

Kết quả kiểm tra điện thoại thể hiện: Điện thoại Iphone 5 màu trắng do Trung Quốc sản xuất, lắp sim thuê bao số 0379.348.293 của Trần Quang V trong khoảng thời gian từ 16 giờ 03 phút đến 16 giờ 42 phút ngày 05/4/2019 có 01 cuộc gọi đi và nhận 02 cuộc gọi đến từ số thuê bao 0977.149.669. Điện thoại Iphone 6 màu trắng do Trung Quốc sản xuất, lắp sim thuê bao số 0977.149.669 của Nguyễn Bá G không có dữ liệu cuộc gọi đi và cuộc gọi đến. G khai đó là do thói quen khi sử dụng điện thoại G thường xóa các thông tin về cuộc gọi và tin nhắn.

Cáo trạng số: 33/CT -VKS ngày 02 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Trần Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Quang V từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Áp dụng hình phạt bổ sung: tịch thu sung quỹ một phần tài sản của bị cáo Trần Quang V là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu để tiêu hủy 01 bì niêm phong số 508/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ. Mặt trước ghi “trả lại: 0,148 chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ: Trần Quang V, SN: 1971, HKTT: Khu 17, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 05/4/2019 tại khu 16, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ”. Mặt sau có 04 chữ ký của Bùi Anh T, Trần Quang V, Nguyễn Phương N và Đinh Bá T và 05 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ.

Đi với 01 sim điện thoại của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quang V hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bố đẻ của bị cáo là thương binh được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương kháng chiến. Đối với 01 sim điện thoại thu của bị cáo, bị cáo không đề nghị lấy lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Thao, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên tòa công khai hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản vi phạm hành chính; kết luận giám định; vật chứng vụ án ... Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định: Vào hồi 16 giờ 50 phút ngày 05 tháng 4 năm 2019, tại khu 16, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ bị cáo Trần Quang V có hành vi tàng trữ trái phép 0,215 gam Heroine, với mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi tàng trữ 0,215 gam Heroine của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, điều luật quy định.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...;

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...”

[3] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại tới chế độ quản lý đặc biệt đối với chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng vì bị cáo là con nghiện ma túy nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy phải đưa ra xét xử và có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét nhân thân, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau:

Lần phạm tội này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra, bố đẻ của bị cáo là thương binh, được tặng thưởng Huân chương chiến thắng, Huy chương kháng chiến, Huy chương chiến sĩ vẻ vang nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về tội trộm cắp tài sản nên Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc áp dụng mức khởi điểm của khung hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có tài sản riêng là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng đã qua sử dụng nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng vụ án: Đối với 01 bì niêm phong số 508/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ. Mặt trước ghi “trả lại: 0,148 chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ: Trần Quang V, SN: 1971, HKTT: Khu 17, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 05/4/2019 tại khu 16, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ”. Mặt sau có 04 chữ ký của Bùi Anh T, Trần Quang V, Nguyễn Phương N và Đinh Bá T và 05 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ cần tịch thu để tiêu hủy.

Đi với 01 sim thuê bao số 0379.348.293 của bị cáo Trần Quang V cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về nguồn gốc ma túy bị cáo khai mua của người đàn ông không quen biết không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có đủ cơ sở điều tra, làm rõ.

Đi với Nguyễn Bá G, sinh năm 1989 ở khu 13, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ do ngoài lời khai của V không có chứng cứ để chứng minh G cùng V góp tiền cùng mua ma túy về sử dụng nên không đủ căn cứ xử lý đối với Nguyễn Bá G là phù hợp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Trần Quang V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

[3] Về hình phạt bổ sung: Tịch thu một phần tài sản của bị cáo là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5, màu trắng đã qua sử dụng, số seri: ĐX3P9TRUFRC6.

[4] Về xử lý vật chứng vụ án:

Tch thu để tiêu hủy 01 bì niêm phong số 508/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ. Mặt trước ghi “trả lại: 0,148 chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong vụ: Trần Quang V, SN: 1971, HKTT: Khu 17, xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 05/4/2019 tại khu 16, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ”.

Mặt sau có 04 chữ ký của Bùi Anh T, Trần Quang V, Nguyễn Phương N và Đinh Bá T và 05 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ.

Tch thu để tiêu hủy 01 sim thuê bao số 0379.348.293 của bị cáo Trần Quang V.

(Tình trạng vật chứng trên thể hiện như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/7/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Thao và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao).

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Quang V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

[6] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Thao - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về