Bản án 35/2018/HS-ST ngày 01/03/2018 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH  SƠN  LA

BẢN ÁN 35/2018/HSST NGÀY 01/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 03 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Phàng Thị M; tên gọi khác: Không; sinh năm 1980 tại huyện B, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản L, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phàng A Th, sinh năm 1947 và bà Sồng Thị Ch, sinh năm 1947; có chồng là Sồng A Th, sinh năm 1978 (hiện đang chấp hành án) và 05 con, con lớn 21 tuổi, con nhỏ 04 tuổi; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 03 tháng 01 năm 2018 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Sồng A Th, sinh năm 1978; trú tại Bản L, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La (hiện đang chấp hành án). Vắng mặt

Người phiên dịch: Ông Thào A P, sinh năm 1985; trú tại: Thị Trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 03/01/2018 tại bản B, xã Tân Xuân, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Công an huyện Vân Hồ chủ trì phối hợp với công an xã Tân Xuân, huyện Vân Hồ phát hiện bắt quả tang Phàng Thị M tàng trữ trong người chất ma túy, tang vật thu giữ gồm 03 gói nilon màu hồng và 01 gói nilon màu xanh, bên trong đựng chất bột màu trắng và 01 chiếc xe máy BKS: 26G1-021.14, M khai đó là heroine của M mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không biết tên và địa chỉ, ở bản A L , xã T, huyện V với giá 150.000 đồng mục đích là để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được heroine M quay về nhà và chia 01 gói heroine được gói bằng gói nilon màu hồng ra làm 02 gói để sử dụng dần. Sau đó, M điều khiển xe máy đi làm thuê tại bản Đông Tà L, xã T. Khi đi đến khu vực bản B, xã T thì bị phát hiện và bắt quả tang.

Cùng ngày, tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Hồ tiến hành cân tịnh, xác định trọng lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Phàng Thị M: Gói thứ nhất có trọng lượng 0,01 gam, lấy toàn bộ 0,01 gam làm mẫu giám định ký hiệu “M” , gói thứ 2 có trọng lượng 0,09 gam lấy 0,04 gam làm mẫu giám định ký hiệu “M2”, gói thứ 03 có trọng lượng 0,02 gam, lấy toàn bộ 0,02 gam làm mẫu giám định ký hiệu “M4”, gói chất bột màu trắng thứ 04 có trọng lượng 0,06 gam , lấy 0,02 gam làm mẫu giám định ký hiệu “M6”. Mẫu giám định “M”, “M2”, “M4”, “M6” được gửi đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La để giám định chất ma túy, loại chất ma túy.

Tại kết luận giám đinh số: 170/KLMT ngày 08/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu M, M2, M4, M6 đều là chất ma túy; loại chất heroine tổng trọng lượng của mẫu giám định là 0,09 gam; Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 0,18 gam, loại chất heroine”.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, bị cáo mua ma túy và cất giấu ma túy mục đích là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo mắc nghiện ma túy.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 08/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Phàng Thị M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện Vân Hồ giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 5 Điều 249 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Phàng Thị M từ 12 (mười hai) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Phạt tiền bị cáo Phàng Thị M 1.000.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,09 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Trả lại cho anh Sồng A Th 01 chiếc xe máy BKS: 26G1-021.14 là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe. Tạm giữ chiếc xe để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Phàng Thị M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Phàng Thị M khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La lập hồi 17 giờ 45 phút ngày 03/01/2018, biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La lập hồi 18 giờ 35 phút ngày 03/01/2018, bản kết luận giám định số 170/KLMT ngày 08/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, lời khai của người chứng kiến chị Mùi Thị Q, sinh năm 1987, trú tại: Bản B, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 03/01/2018, bị cáo Phàng Thị M đã có hành vi tàng trữ 0,18 gam heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phàng Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy, phải xử lý nghiêm khắc cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế  nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự,

Bị cáo Phàng Thị M đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Phàng Thị M còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có tài sản chung có giá trị là chiếc xe máy BKS: 26G1-021.14, đăng ký xe mang tên Sồng A Th (là chồng của bị cáo) nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Phàng Thị M mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết. Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo ra không có chứng cứ nào khác nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý người bán ma túy cho bị cáo Phàng Thị M.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc xe máy BKS: 26G1-021.14 là tài sản chung của vợ chồng bị cáo do chồng bị cáo đứng tên chủ sở hữu, việc bị cáo dùng chiếc xe vào việc phạm tội chồng bị cáo không biết nên cần tuyên trả lại chiếc xe cho chồng bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp. Đối với 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,09 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, khoản 2, 3 Điều 35, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015

Tuyên bố bị cáo Phàng Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .

Xử phạt bị cáo Phàng Thị M 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2018 (là ngày bị bắt tạm giam, giữ đối với bị cáo).

Phạt tiền bị cáo 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì  đã được niêm phong bên trong đựng 0,09 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Trả lại cho anh Sồng A Th 01 chiếc xe máy BKS: 26G1-02114 là chủ sở hữu hợp pháp đối với chiếc xe.

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo thủ tục hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2018/HS-ST ngày 01/03/2018 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về