Bản án 346/2020/HC-PT ngày 07/08/2020 về khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 346/2020/HC-PT NGÀY 07/08/2020 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ

Trong ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 543/2018/TLPT-HC ngày 11 tháng 10 năm 2018 về việc: “Khiếu kiện yêu cầu hủy Quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 118/2018/HC-ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Toà án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 260/2020/QĐPT-HC ngày 13 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp 5, xã An Nhựt T2, huyện Tân T, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Lê Bảo Q, sinh năm 1976 (có mặt) Địa chỉ: số 413/41/14/31 Lê Văn Q1, phường Bình Trị Đ A, quận Bình T2, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền ngày 26/6/2018).

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An.

Người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện: Ông Trịnh Phước T3 - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An (có đơn xin xét xử vắng mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Ngô Tấn T1 - Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Tân T, tỉnh Long An (có mặt).

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn An Nhựt Tân Long An.

Địa chỉ trụ sở chính: số 25/1 Quốc lộ 1A, xã Long H, huyện Bến L, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Trầm Cẩm L1 - Giám đốc (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn M, sinh năm 1963; (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: 175 Lý Thường K, Phường 8, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Người kháng cáo: ông Lê Bảo Q là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện và người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện Tân T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Người khởi kiện – ông Nguyễn Thanh B do ông Lê Bảo Q đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vào ngày 09/6/2017, Ủy ban nhân dân huyện Tân T (UBND huyện Tân T) ban hành Quyết định 4641/QĐ-UBND với nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của ông Nguyễn Thanh B để thực hiện dự án hạ tầng khu công nghiệp An Nhựt T2. Tổng cộng số tiền bồi thường là 738.046.024đ, ông B đã nhận tiền bồi thường xong. Ông B không đồng ý giá trị bồi thường vì giá trị đất chưa đúng với thực tế, chưa xem xét vị trí đất và các khoản hỗ trợ khác chưa đúng quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, ông Nguyễn Thanh B khởi kiện yêu cầu hủy toàn bộ Quyết định 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của UBND huyện Tân T để ban hành quyết định bồi thường theo đúng quy định pháp luật.

* Người bị kiện - Ủy ban nhân dân huyện Tân T do ông Trịnh Phước Trung đại diện theo ủy quyền trình bày ý kiến như sau:

Thực hiện chủ trương thu hồi đất đề đầu tư hạ tầng Khu công nghiệp An Nhựt T2, UBND huyện Tân T đã thực hiện các thủ tục theo quy định và thực hiện kê biên, áp giá, ban hành các quyết định bồi thường cho các hộ dân có đất và tài sản trên đất trong Khu công nghiệp An Nhựt T2. Trong quá trình ban hành quyết định thu hồi đất năm 2008 và quyết định bồi thường, các hộ dân trong đó có hộ ông B đã chấp hành và không khởi kiện. Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Long An giải quyết và đã tuyên hủy các quyết định bồi thường đối với 82 hộ dân. Đến ngày 12/01/2017 UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định 148/QĐ-UBND về việc phê duyệt lại hệ số điều chỉnh đơn giá đất bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng xây dựng khu công nghiệp An Nhựt T2 trên địa bàn xã An Nhựt T2, huyện Tân T.

Ngày 09/6/2017, UBND huyện T2 T ban hành Quyết định số 4758/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư cho từng hộ. Theo đó, UBND huyện Tân T ban hành Quyết định 4641/QĐ-UBND với nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của ông B để thực hiện dự án hạ tầng Khu công nghiệp An Nhựt T2. Tổng cộng số tiền bồi thường là là 738.046.024đ, (mức bồi thường nhận năm 2007 là 307.225.481đ), ông B đã nhận đủ số tiền bồi thường. UBND huyện Tân T xác định đã thực hiện bồi thường đúng theo quy định pháp luật nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh B.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Công ty TNHH An Nhựt T2 Long An có văn bản trình bày:

Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo quy định pháp luật và xin Tòa án xét xử vụ án vắng mặt Công ty TNHH An Nhựt T2 Long An.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 118/2018/HC-ST ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:

Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Điều 74, Điều 75, Điều 83 và Điều 86 Luật đất đai; Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh B về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của UBND huyện Tân T.

Hủy 01 phần Quyết định 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của UBND huyện Tân T tại khoản 2 Điều 1 Về chính sách tái định cư.

Buộc UBND huyện Tân T giải quyết lại chính sách tái định cư cho ông Nguyễn Thanh B theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, bản án hành chính sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/8/2018, ông Lê Bảo Q là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện kháng cáo một phần bản án hành chính sơ thẩm và ngày 09/8/2018 người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện Tân T kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Bảo Q là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Nguyễn Thanh B vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông B, hủy toàn bộ Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất đối với ông B; với các lý do: Ủy ban nhân dân huyện Tân T bồi thường như vậy là thấp chưa đúng với thực tế, các khoản hỗ trợ khác chưa đúng quy định của pháp luật hiện hành; Ủy ban nhân dân huyện Tân T không áp dụng Luật đất đai năm 2003 mà lại áp dụng quy định của Luật đất đai năm 2013.

Đại diện người bị kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, Ủy ban nhân dân huyện Tân T kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông B, Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An ban hành là đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính về phiên tòa phúc thẩm. Những người người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Về nội dung, qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của UBND huyện Tân T ban hành là có một phần không phù hợp với quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông B và Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An; Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận: Toàn bộ diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn ở trên, xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh B và Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên như sau:

[1] Về tố tụng:

Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của UBND huyện Tân T về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất của ông B là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính.

Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 09/6/2017, UBND huyện Tân T ban hành Quyết định số 4641/QĐ-UBND, đến ngày 16/5/2018, ông B có đơn khởi kiện là trong thời hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính.

[2] Về nội dung Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của UBND huyện Tân T, tỉnh Long An [2.1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành:

Thực hiện chủ trương thu hồi đất để đầu tư hạ tầng khu công nghiệp An Nhựt Tân, UBND huyện Tân T đã thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật và thực hiện kê biên, áp giá, ban hành các quyết định bồi thường cho các hộ dân có đất bị thu hồi và tài sản trên đất trong khu công nghiệp An Nhựt Tân từ năm 2007-2008, trong đó có hộ ông Nguyễn Thanh B. Các quyết định được ban hành không đúng quy định pháp luật và đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An tuyên hủy, đề nghị giải quyết lại.

ông B không khởi kiện nhưng để giải quyết công bằng cho những hộ không khởi kiện với những hộ khởi kiện, ngày 12/01/2017, UBND huyện Tân T ban hành Quyết định số 148/QĐ-UBND về việc phê duyệt lại hệ số điều chỉnh đơn giá đất bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án xây dựng Khu công nghiệp An Nhựt Tân. Ngày 09/6/2017, UBND huyện Tân T ban hành Quyết định số 4758/QĐ-UBND phê duyệt phương án, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho từng hộ. Ngày 09/6/2017, UBND huyện Tân T ban hành Quyết định số 4641/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất của ông B là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 2 Điều 66 và Điều 69 Luật đất đai năm 2013.

[2.2] Về nội dung của Quyết định số 4641/QĐ-UBND:

[2.2.1] Đối với giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi Xét thấy, để có cơ sở giải quyết bồi thường, UBND huyện Tân T đã đề xuất trưng cầu Công ty Cổ phần Thông tin và Thẩm định giá Miền Nam để xác định giá trị đất theo thời điểm bồi thường và được UBND tỉnh Long An họp dân, niêm yết và phê duyệt theo Quyết định số 148/QĐ-UBND ngày 12/01/2017 là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013.

ông B cho rằng việc UBND huyện Tân T căn cứ vào Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 để tính bồi thường, hỗ trợ cho ông là không đúng. Xét thấy, tại thời điểm UBND huyện Tân T ban hành Quyết định số 4641/QĐ-UBND là ngày 18/01/2017 thì Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ đang có hiệu lực pháp luật nên UBND huyện Tân T viện dẫn căn cứ áp dụng Nghị định số 47/2014/NĐ-CP là có căn cứ. Ông Lê Bảo Q đại diện theo ủy quyền của ông B, đưa ra một số hợp đồng chuyển nhượng đất làm cơ sở cho việc áp giá bồi thường theo yêu cầu của ông B. Dù ông Q viện dẫn Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ, nhưng chính khoản 1 Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 và khoản 2 Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ quy định đất xây dựng Khu công nghiệp do Nhà nước thu hồi và giá đất để tính bồi thường là giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định hàng năm. Trường hợp giá đất này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giá đất cho phù hợp. Hơn nữa, mức giá của UBND huyện Tân T áp dụng cũng cao hơn mức giá đất được UBND tỉnh Long An quy định hàng năm tại thời điểm bồi thường. Do đó, việc áp giá đất bồi thường theo yêu cầu của ông Nguyễn Thanh B là không có cơ sở để chấp nhận.

[2.2.2] Về các khoản hỗ trợ khác Ủy ban nhân dân huyện Tân T áp dụng mức hỗ trợ di dời và mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp trên cơ sở Quyết định số 148/QĐ-UBND ngày 12/01/2017 và Quyết định số 56/QĐ-UBND quy định bồi thường trên toàn địa bàn tỉnh Long An là phù hợp với quy định tại Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Các khoản hỗ trợ trên không do UBND huyện Tân T tự quyết định mà phải căn cứ trên sự phê duyệt của UBND tỉnh Long An và mức 0,4 do UBND tỉnh Long An quy định trên toàn địa bàn tỉnh Long An là phù hợp với quy định pháp luật. Bởi lẽ, quy định của Chính phủ về mức hỗ trợ không quá 5 lần mà không quy định mức tối thiểu nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu tăng mức hỗ trợ này của nguời khởi kiện.

[2.2.3] Về việc xem xét nền tái định cư Ông Lê Bảo Q đại diện theo ủy quyền của ông B xác định, ông B đã được nhận lô nền A12 theo Phiếu nhận lô nền ngày 28/12/2009 của Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Khu công nghiệp An Nhựt Tân giá trị 49.760.000 đồng, diện tích 80m2 và ông B không khởi kiện. Tuy nhiên, khi giải quyết bồi thường lại cho ông B, UBND huyện Tân T không xem xét ông B có được nhận tái định cư lô A12 hay nhận tái định cư bằng tiền là có thiếu sót. Bởi vì, việc chậm thi công và chậm đưa người dân vào khu tái định cư là lỗi của nhà đầu tư và trách nhiệm của UBND huyện Tân T. Hơn nữa, nếu ông B tiếp tục chọn nền tái định cư lô A12 mà ông B đã nhận thì ông B phải nộp thêm số tiền bao nhiêu cũng không được UBND huyện Tân T giải quyết là bất lợi cho ông B. Quyết định số 148/QĐ-UBND ngày 12/01/2017 của UBND tỉnh Long An và Quyết định số 4587/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của UBND huyện Tân T về việc phê duyệt lại phương án bồi thường đều không quy định trường hợp đã nhận nền tái định cư thì phải thu hồi giải quyết lại việc bồi thường như lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện. Do đó, ông Q đại diện theo ủy quyền của ông B yêu cầu UBND huyện Tân T xem xét nền tái định cư cho ông B là có căn cứ nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của ông Nguyễn Thanh B là có cơ sở.

[3] Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc UBND huyện Tân T ban hành Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 có một phần về xem xét tái định cư đối với ông B là chưa đúng quy định pháp luật. Do đó, có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh B.

Phần còn lại của Quyết định số 4641/QĐ-UBND nêu trên, xét đây là dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006, đã đi vào thực hiện và qua 02 lần bồi thường, lần bồi thường thứ hai đã xem xét đầy đủ các khoản bồi thường theo quy định của pháp luật, ông Nguyễn Thanh B đã nhận tiền, nay yêu cầu bồi thường thêm về giá đất và các khoản hỗ trợ khác là không có cơ sở chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, phía người khởi kiện cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho lập luận của mình.

Ủy ban nhân dân huyện Tân T kháng cáo cho rằng toàn bộ các nội dung trong Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An ban hành đúng thẩm quyền phù hợp quy định của pháp luật, là không có cơ sở để chấp nhận như đã phân tích ở trên.

Ông Lê Bảo Q đại diện cho ông B kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An cũng không có căn cứ để chấp nhận.

[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện, ông Nguyễn Thanh B và người bị kiện UBND huyện Tân T phải chịu do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh B và kháng cáo của Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 118/2018/HC-ST ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Điều 74, Điều 75, Điều 83 và Điều 86 Luật Đất đai; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh B về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4641/QĐ-UBND ngày 09/6/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tân T tại khoản 2 Điều 1 về chính sách tái định cư; Buộc Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An giải quyết lại chính sách tái định cư cho ông Nguyễn Thanh B theo quy định của pháp luật.

2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0000021 ngày 07/8/2018 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An. Ủy ban nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0000028 ngày 09/8/2018 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 346/2020/HC-PT ngày 07/08/2020 về khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Số hiệu:346/2020/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 07/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về