Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ VIỆC LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 53/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Kiều O, sinh năm 1988 (có mặt).

Địa chỉ: khóm T, phường K, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng:

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: khóm T, phường K, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện ngày 07/02/2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Kiều O trình bày:

Về hôn nhân: Vào năm 2010, chị và anh Nguyễn Hoàng Đ được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Đến ngày 04/01/2011, chị và anh Đ mới đăng ký kết tại Ủy ban nhân dân phường Khánh Hòa, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Thời gian đầu chị và anh Đ chung sống hạnh phúc, nhưng dần dần cả hai không cùng quan điểm, không hợp tính tình, anh Đ ham mê rượu chè, không có trách nhiệm với vợ con. Từ đó cả hai phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không giải tỏa được.Tuy sống chung một nhà nhưng thường xuyên tranh chấp cãi vã với nhau.

Nay chị O nhận thấy tình cảm giữa chị với anh Đ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về hôn nhân: Được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Đ.

Về con chung: Chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 25/8/2011 và Nguyễn Nhật Kim A, sinh ngày 04/5/2017 cho đến khi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi các con thì chị không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Đối với bị đơn anh Nguyễn Hoàng Đ đã được Tòa án thông báo và triệu tập hợp lệ từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh Đ đều vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, đối với bị đơn đều vắng mặt các lần Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và đều vắng mặt tại các lần mở phiên tòa xét xử. Cho nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa cho thấy: Tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Kiều O với anh Nguyễn Hoàng Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, các bên đương sự hiện không ai quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị O được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 25/8/2011 và Nguyễn Nhật Kim A, sinh ngày 04/5/2017, hiện nay chị O là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Duy A và cháu Kim A cho chị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Duy A. Dành quyền thăm nom, giáo dục con cho anh Đ, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị O không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi cháu Duy A và cháu Kim A nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1 Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, bị đơn có địa chỉ tại khóm T, phường K, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án nhân dân thị xã C thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

2 Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Hội đồng xét xử cần xác định lại là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng với quy định của pháp luật.

3 Đối với bị đơn anh Nguyễn Hoàng Đ, tại phiên tòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

[4 Về nội dung vụ án: Xét đơn yêu cầu về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Kiều O đối với anh Nguyễn Hoàng Đ, Hội đồng xét xử xét thấy: Về quan hệ hôn nhân của chị O và anh Đ không vi phạm các điều kiện kết hôn và sau khi cưới nhau hai người có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường K, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, mối quan hệ hôn nhân giữa chị O với anh Đ phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, thiếu quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, tại phiên tòa chị O vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu xin được ly hôn với anh Đ. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận cho chị O được ly hôn với anh Đ.

[5] Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 25/8/2011 và Nguyễn Nhật Kim A, sinh ngày 04/5/2017, hiện nay chị O là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Duy A và Kim A cho chị O tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên là phù hợp với nguyện vọng của cháu Duy A và phù hợp với quy định của pháp luật. Dành quyền thăm nom, giáo dục con cho anh Đ, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị O không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi cháu Duy A và Kim A nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6 Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Lời đề nghị của Vị Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [8] Chị Nguyễn Kiều O phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 5, khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, Điều 144, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Kiều O được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Đ.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Kiều O được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên: Nguyễn Duy A, sinh ngày 25/8/2011 và Nguyễn Nhật Kim A, sinh ngày 04/5/2017 đến khi thành niên. Dành quyền thăm nom, giáo dục con cho anh Đ không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị O không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi cháu Duy A và Kim A nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Kiều O phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng chị O được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000694, ngày 13 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C. Như vậy, chị O đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Hoàng Đ không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:34/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về