Bản án 34/2017/HSST ngày 02/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 02/06/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2017/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2017, đối với bị cáo:

NGUYỄN QUANG K (C) - Sinh năm: 1989, tại Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận

Trình độ học vấn: 05/12 - Nghề nghiệp: Không

Con ông: Nguyễn Quang L, sinh năm: 1960 và bà: Nguyễn Thị Bạch M, sinh năm 1966.

Vợ: Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1993; có 01 con, sinh năm: 2011

Tiền sự: Không

Tiền án: Ngày 26/6/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố P - tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 125/2014/HSST). Đến ngày 05/02/2015, Nguyễn Quang K chấp hành xong hình phạt tù (Giấy chứng nhận số 170/GCN của Giám thị trại giam Huy Khiêm).

Nhân thân: Ngày 09/01/2009, bị Tòa án nhân dân huyện H - tỉnh Bình Thuận xử phạt 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Đến ngày 18/02/2010, Nguyễn Quang K chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt từ ngày 11/01/2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã L (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Huỳnh Trần Duyên H, sinh năm 1997 - Trú: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Quang K bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 17h 00’ ngày 11/01/2017, Công an phường P phát hiện đối tượng Huỳnh Trần Duyên H, sinh năm 1997 đang ngồi trên xe môtô biển số 86V1 - 7521 và cách vị trí H ngồi khoảng 06 mét có Nguyễn Quang K đang đi bộ về phía H, thấy lực lượng Công an, K liền vứt một bịch nylon xuống đất thì bị phát hiện bắt giữ. Qua kiểm tra phát hiện bên trong bịch nylon có 02 đoạn ống nhựa màu xanh, 05 đoạn ống nhựa màu trắng và 12 đoạn ống nhựa màu vàng (loại ống hút nước giải khát) được cắt ngắn hàn kín hai đầu, bên trong có chất bột màu trắng, K khai nhận đây là 19 tép ma túy K vừa mua của một người thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực T, phường B. Ngoài ra, Công an còn thu giữ trong người K 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím, số tiền 130.000 đồng và 01 khế ước cầm đồ; Thu giữ của H 01 chứng minh nhân dân, 01 điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím và 01 xe môtô biển số 86V1 - 7521.

Tại Bản kết luận giám định ma túy số 18/GĐ-PC54 ngày 12/01/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận xác định: “Mẫu M gửi giám định có khối lượng 1,1006 gam, là Heroin”.

Vật chứng vụ án: Gồm 0,8571 gam mẫu vật còn lại sau giám định và 19 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (02 đoạn màu xanh, 05 đoạn màu trắng và 12 đoạn màu vàng) được niêm phong trong phong bì số 18; 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng, 01 khế ước cầm đồ, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và số tiền 130.000 đồng, Cơ quan điều tra đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã L quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/4/2017. Riêng chiếc điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím màu đen, vỏ màu tím, 01 giấy chứng minh nhân dân và xe mô tô biển số 86V1 - 7521 không liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Huỳnh Trần Duyên H theo biên bản trả lại tài sản ngày 12/01/2017.

Về nguồn gốc ma túy, quá trình điều tra xác định: Khoảng 15h 30’ ngày 11/01/2017, một người bạn tên T (không rõ nhân thân lai lịch) ở ngã ba T, xã T, huyện H gọi điện thoại nhờ Nguyễn Quang K đi mua ma túy giùm, nếu mua được T sẽ cho K 02 tép thì K đồng ý và gọi điện thoại rủ Huỳnh Trần Duyên H đi thị xã L mua ma túy và hứa sẽ cho H 01 tép để sử dụng nên H đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe môtô biển số 86V1 - 7521 đến nhà K rồi K điều khiển xe trên chở H qua ngã ba T, huyện H và để H đứng ở ngoài đường chờ, còn K một mình đi vào điểm hẹn phía trong ngã ba gặp T. Tại đây, T đưa cho K 1.950.000 đồng, sau đó K quay lại chở H đến gần bến đò thuộc khu phố 6, phường P, thị xã L rồi dừng xe lại nói H ngồi chờ, còn K đi đò qua khu vực T, phường B mua của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) 1.950.000 đồng được 19 tép ma túy. Sau khi mua được ma túy K đi đò quay lại cách H khoảng 06 mét, nhìn thấy Công an nên K vứt 19 tép ma túy trong bị nylon xuống đất thì bị Công an phường P phát hiện bắt và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 28/QĐ-VKS ngày 17/4/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Quang K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã LaGi đề nghị Hội đồng xét xử; Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Phạt: Bị cáo Nguyễn Quang K, mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

* Biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng: Điểm a, c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, Điểm a, đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên: Tịch thu tiêu hủy 0,8571 gam mẫu vật còn lại sau giám định, 19 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (02 đoạn màu xanh, 05 đoạn màu trắng và 12 đoạn màu vàng) được niêm phong trong phong bì số 18 và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo K 01 khế ước cầm đồ và số tiền 130.000 đồng không liên quan đến tội phạm. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia thu giữ của bị cáo K.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại tòa, bị cáo Nguyễn Quang K thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thị xã L đã truy tố, không oan. Xét, lời khai của bị cáo tại Tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 11/01/2017, tại khu đất trống thuộc khu phố 6, phường P, thị xã L. Bị cáo Nguyễn Quang K đã có hành vi tàng trữ trái phép 19 tép ma túy (có đặc điểm: 02 đoạn ống nhựa màu xanh, 05 đoạn ống nhựa màu trắng, 12 đoạn ống nhựa màu vàng, đều được hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất bột, màu trắng) thì bị Công an phường P phát hiện, bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật.

Tại Bản kết luận giám định ma túy số 18/GĐ-PC54 ngày 12/01/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận, kết luận: “Mẫu M gửi giám định có khối lượng 1,1006 gam, Heroin”.

Với hành vi tàng trữ trái phép 1,1006 gam Heroin của bị cáo Nguyễn Quang K đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Quang K về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo Nguyễn Quang K, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã có gia đình riêng nhưng không chịu tu dưỡng đạo đức, chí thú làm ăn lương thiện để chăm lo cho bản thân và gia đình, mà lao vào con đường nghiện ngập. Xét thấy, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện, nên bản thân bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt được độc hại, làm ảnh hưởng tới thể chất, nhận thức của người sử dụng và tệ nạn ma túy là nguyên nhân nảy sinh nhiều loại tội phạm khác. Mặc dù nhận thức rõ vấn đề này nhưng để thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo đã bất chấp hậu quả do ma túy mang lại cũng như bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bị cáo rủ anh Huỳnh Trần Duyên H đi thị xã L mua ma túy và hứa sẽ cho anh H 01 tép để sử dụng, thì được anh Hậu đồng ý, khi cả hai đến gần bến đò thuộc khu phố 6, phường P, thị xã L, K nói H ngồi chờ, còn K đi đò qua khu vực T, phường B mua của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 1.950.000 đồng, được 19 tép ma túy. Sau khi mua được ma túy K đi đò quay lại phường P, khi cách H khoảng 06 mét, nhìn thấy lực lượng công an nên K vứt 19 tép ma túy trong bị nylon xuống đất thì bị Công an phường P phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Quang K là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương. Hơn nữa, bản thân bị cáo còn có nhân thân xấu, năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án 125/2014/HSST ngày 26/6/2014). Mặc dù bị cáo vừa mới chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương vào ngày 05/02/2015 và bản thân chưa được xóa án tích theo luật định, thế nhưng bị cáo lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân sống lương thiện, mà nghiện ngập và tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm”. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Xét thấy, với tình hình tội phạm về ma túy đang ngày một gia tăng, mà địa bàn thị xã L là một trong những địa phương có tình hình tội phạm về ma túy diễn biến hết sức phức tạp, thu hút nhiều con nghiện ở các địa phương khác đến mua bán, tàng trữ, sử dụng... ma túy, dư luận xã hội bất bình lên án. Do đó, để đảm bảo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương, cũng như lập lại trật tự công cộng, cần thiết phải xử lý nghiêm khắc, nhằm răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Quang K, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo các tình tiết sau: Quá trình điều tra và tại Tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về việc làm sai trái của bản thân. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

Xét thấy, ngày 27/11/2015, Quốc Hội khóa XIII thông qua Bộ luật hình sự năm 2015Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự. Ngày 29/6/2016 Quốc Hội khóa XIII ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực của Bộ luật hình sự năm 2015 và bổ sung dự án luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Đồng thời, ngày 13/9/2016, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 276/2016/TANDTC ngày 13/9/2016 về việc hướng dẫn những quy định có lợi cho người phạm tội. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đây là quy định có lợi hơn so với Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Xét, do chuyển biến tình hình, chính sách nhân đạo của Nhà nước và căn cứ Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội. Do đó, cần thực hiện các quy định có lợi cho bị cáo Nguyễn Quang Khoa tại Khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và Điểm b Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 109/2015/QH13 về thi hành Bộ luật hình sự và các quy định có lợi khác cho bị cáo Nguyễn Quang K tại Nghị quyết 109/2015/QH13.

Đối với hành vi của anh Huỳnh Trần Duyên H, mặc dù biết rõ bị cáo K rủ đi thị xã L mua ma túy nhưng vẫn đồng ý dùng xe môtô biển số 86V1 - 7521 để chở bị cáo K đi với mục đích được K cho ma túy sử dụng. Tuy nhiên, đến gần khu vực bến đò thuộc khu phố 6, phường P, thị xã L thì K dừng xe lại nói H ngồi đó chờ, còn K đi đò qua khu vực T, phường B mua ma túy và bị bắt giữ. Xét thấy, trong vụ án này, H chưa thực hiện đầy đủ hành vi được quy định tại Điểm d, Tiểu mục 3.7, Mục 3, Phần 2 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 của BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, V/v: Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, cụ thể: “Người nào biết người khác mua chất ma túy để sử dụng trái phép mà dùng phương tiện để chở họ cùng chất ma túy và bị bắt giữ nếu số lượng chất ma túy đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy thì người đó là đồng phạm với người mua...” nên hành vi của Huỳnh Trần Duyên H chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an thị xã L không đề nghị xử lý hình sự đối với H là có căn cứ.

Đối với người thanh niên tên T là người nhờ bị cáo Kh đi mua ma túy giùm và người thanh niên tên T là người bán ma túy cho bị cáo K, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của hai đối tượng trên, nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,8571 gam mẫu vật còn lại sau giám định, 19 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (02 đoạn màu xanh, 05 đoạn màu trắng và 12 đoạn màu vàng) được niêm phong trong phong bì số 18 ngày 12/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng, là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 khế ước cầm đồ và số tiền 130.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Quang K. Xét thấy, không liên quan đến tội phạm, cần trả lại cho bị cáo Khoa.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím màu đen, vỏ màu tím; 01 giấy chứng minh nhân dân và xe môtô biển số 86V1 - 7521 thu giữ của Huỳnh Trần Duyên H, quá trình điều tra đã giải quyết xong, nên Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang K, phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm g khoản 1 Điều 48; Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7 và Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang K 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/01/2017.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Tuyên: - Tịch thu tiêu hủy 0,8571 gam mẫu vật còn lại sau giám định và 19 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu (02 đoạn màu xanh, 05 đoạn màu trắng và 12 đoạn màu vàng) được niêm phong trong phong bì số 18 ngày 12/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang K 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 khế ước cầm đồ và số tiền 130.000 đồng (Một trăm ba mươi ngàn đồng).

Hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/4/2017 giữa Cơ quan CSĐT công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L.

Áp dụng: Điều 98; Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Quang K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Đối với Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 02/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về