Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 842/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm: 1979;

Địa chỉ: Số B ấp A, xã Đ, TP M, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu N, sinh năm: 1975; Địa chỉ: Số B ấp A, xã Đ, TP M, tỉnh Tiền Giang.

(Có mặt chị V, vắng mặt anh N)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 07/12/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc V trình bày: Chị và anh Nguyễn Hữu N kết hôn năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C(nay là xã Đ, TP M), tỉnh Tiền Giang vào ngày 15/7/1999. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do anh N thường xuyên rượu chè không phụ giúp chị chăm sóc gia đình con cái, từ đó tính cảm ngày càng rạn nứt, mặc dù đã nhiều lần hàn gắn nhưng không thành. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Trọng T, sinh ngày 19/01/2000 (đã trưởng thành) và Nguyễn Trọng H, sinh ngày 07/4/2006. Chị V yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Hiếu, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Hữu N đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà nhưng vẫn không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của chị V.

* Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Ngọc V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng Dân sự quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của chị V là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị V được ly hôn với anh N, về con chung giao con chung cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ngọc V và anh Nguyễn Hữu N kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Được Ủy ban nhân dân xã L, huyện C (nay là Ủy ban nhân dân xã Đ, TP M), tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 084, ngày 15/7/1999. Ngày 07/12/2020 V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh N đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Nguyễn Hữu N cư trú tại số B ấp A, xã Đ, TP M, tỉnh Tiền Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu N đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng không có mặt để dự phiên tòa mà không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Hữu N theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc V và anh Nguyễn Hữu N được Ủy ban nhân dân xã L, huyện C (nay là Ủy ban nhân dân xã Đ, TP M), tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật, xác định hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc. Đến năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do anh N thường xuyên rượu chè, không phụ vợ chăm sóc con cái, chăm lo gia đình. Chị V nhiều lần khuyên can nhưng anh N không thay đổi. Lâu ngày tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Hiện nay cả hai không còn yêu thương quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2019 đến nay.

Xét thấy, từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa xét xử hôm nay, Tòa án đã triệu tập anh N đến để tham dự phiên toà, nhưng anh N vắng mặt không có lý do, nên không đưa ra được một biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Việc anh N không đến dự phiên toà là mặc nhiên từ bỏ cơ hội để vợ chồng đoàn tụ với nhau. Tại phiên tòa chị V trình bày không còn tình cảm, không muốn tiếp tục chung sống đời sống vợ chồng với anh N nên đã nộp đơn ly hôn và vẫn cương quyết ly hôn, cho thấy hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 02 con chung là Nguyễn Trọng T, sinh ngày 19/01/2000 và Nguyễn Trọng H, sinh ngày 07/4/2006. Cháu T đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa chị V yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H sau khi ly hôn. Xét thấy, cháu H hiện nay đã trên 07 tuổi, có bản tự khai thể hiện nguyện vọng được sống chung với mẹ sau khi ly hôn. Do đó, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H khi ly hôn của chị V là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con do chị V không có yêu cầu Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Chị V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 8, 9, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc V.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc V được ly hôn với anh Nguyễn Hữu N;

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Trọng H, sinh ngày 07/4/2006 cho chị Nguyễn Thị Ngọc V trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Hữu N không phải cấp dưỡng nuôi con do chị V không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị V đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004531 ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố M, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Ngọc V có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Hữu N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về