Bản án 33/2020/HSST ngày 28/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 33/2020/HSST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/4/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2020/TLST - HS ngày 12/03/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXXST – HS ngày 13 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Ngọc Đ. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 10/6/2000 tại xã NT, huyện N, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm 4, xã NT, huyện N, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Họ tên cha: Phạm Văn H, Sinh năm 1976 (Đã chết). Họ tên mẹ: Đặng Thị Hồng Nh, sinh năm 1980. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con đầu trong gia đình. Đều cư trú tại xóm 4, xã NT, huyện N, tỉnh Nghệ An.Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 393/2017/HSST ngày 02/10/2017 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt 29 tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/7/2019. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2020 tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Nghệ An cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 01/01/2020, Phạm Ngọc Đ đi xuống khu vực phường N, thị xã C để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Đ gặp một người đàn ông tên X (Không xác định được nhân thân, lý lịch cụ thể). Tại đây, Đ nói với X là: “Bán cho em bịch ba trăm” (Ý nói bán cho một gói ma túy với giá 300.000 đồng), X không nói gì, nhận 300.000 đồng của Đ đưa và đi khoảng 05 phút sau quay lại đưa cho Đ 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa ma túy. Đ cầm gói ma túy đi về khu vực Bệnh viện Đa khoa huyện N lấy một ít ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại, Đ bỏ trong túi áo khoác màu đen đang mặc rồi đi chơi điện tử. Đến khoảng 10 giờ ngày 02/01/2020, Đ đi đến khu vực xóm Bệnh viện, xã NT, huyện N thì bị Công an huyện N kiểm tra, phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ trong túi áo khoác màu đen của Phạm Ngọc Đ 01 gói nilon màu trắng, kích thước 2cm x 2cm, bên trong có chứa các chất tinh thể màu trắng (Nghi là ma túy) và đã tiến hành niêm phong vật chứng nêu trên.

Ngày 03/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã tiến hành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng toàn bộ gói chất tinh thể màu trắng (Nghi là ma túy) thu giữ của Phạm Ngọc Đ có khối lượng cả bì là 0,25 gam (Không phẩy hai lăm gam). Sau khi loại bỏ bao bì, số chất tinh thể màu trắng (Nghi là ma túy) còn lại khối lượng là 0,2 gam (Không phẩy hai gam) và lấy 0,1 gam (Không phẩy một gam) gửi đi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 130/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Ngọc Đ gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Ngọc Đ có khối lượng là 0,2 gam (Không phẩy hai gam)”.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS-HS ngày 10/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố Phạm Ngọc Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về vật chứng: 01 (Một) phong bì thư Công an huyện, mặt trước có ghi: “Vật chứng còn lại thu giữ của Phạm Ngọc Đ, sinh năm 2000 vào ngày 02/01/2020”. Bên trong có 01 bao ni lông màu trắng, hình chữ nhật chứa 0,1 gam chất ma túy còn lại thu giữ của Phạm Ngọc Đ.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Đ mức hình phạt từ 18 đến 24 tháng tù. Và đề nghị xử lý vật chứng vụ án theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện N, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố. lời khai của bị cáo phù hợp với các vật chứng thu giữ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 02/01/2020, tại khu vực xóm Bệnh viện, thuộc xã NT, huyện N, tỉnh Nghệ An, Phạm Ngọc Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,2 gam (Không phẩy hai gam) chất ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang, thu giữ số ma túy nêu trên. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu là đã bị Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt tù về hành vi “Cướp giật tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt tù nhưng không tu chí làm ăn, mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy cần xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

nh tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

nh tiết tăng nặng: bị cáo có 1 tình tiết tăng nặng là tái phạm, theo điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có việc làm, không có tài sản nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: 01 (Một) phong bì thư Công an huyện, mặt trước có ghi: “Vật chứng còn lại thu giữ của Phạm Ngọc Đ, sinh năm 2000 vào ngày 02/01/2020”. Bên trong có 01 bao ni lông màu trắng, hình chữ nhật chứa 0,1 gam chất ma túy còn lại thu giữ của Phạm Ngọc Đ. Số vật chứng này là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về các nội dung liên quan khác:

Đối với người đàn ông tên X đã bán ma túy cho Phạm Ngọc Đ, kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h, khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;

- Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Phạm Ngọc Đ 2 ( Hai ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 02/01/2020).

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư niêm phong do Công an huyện N ban hành, bên ngoài có ghi: “Vật chứng còn lại thu giữ của Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1990 vào ngày 22/01/2020”.

(Vật chứng hiện đang lưu tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Nghệ An theo biên bản giao nhận ngày 31/03/2020).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HSST ngày 28/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về