Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 về kiện ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ KIỆN LY HÔN

Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 162/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021 về việc “Kiện ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 12/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/QĐST – HNGĐ ngày 28/7/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị C; sinh năm 1983 (có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Công T; sinh năm 1981 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn A, xã E K, huyện C M, tỉnh Đăk Lăk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai nguyên đơn chị Lê Thị C trình bày:

Tôi và anh Nguyễn Công T có đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kiết, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, ông T thường xuyên uống rượu về chửi bới vợ con, thậm chí còn đánh vợ con phải đi viện cấp cứu vì đứt mạch máu và hai gân ở mu bàn chân. Tôi cũng đã nhiều lần vì con tôi muốn ông thay đổi nên gọi anh em nội ngoại đến để hòa giải nhưng ông T vẫn chứng nào tật đó, tôi đã đưa đơn ra thôn và xã nhiều lần nhưng ông T vẫn không thay đổi, càng dần ông T càng xa đà nhậu nhẹt không lo làm ăn, cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng bế tắc không thể hàn gắn được. Nay tôi làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar giải quyết cho được ly hôn với anh Nguyễn Công T.

Về con chung: Chúng tôi có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 12/10/2006 và cháu Nguyễn Thị Z, sinh ngày 09/6/2011. Hiện nay tôi đang trực tiếp nuôi dưỡng nên tôi có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cả 02 cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Nguyễn Công T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã triệu tập anh Nguyễn Công T để giao thông báo thụ lý vụ án, làm bản tự khai, thông báo về phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Công T vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tại chính quyền địa phương vào ngày 18/5/2021 được biết anh Nguyễn Công T có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng anh Nguyễn Công T thường xuyên vắng mặt ở nhà vào giờ làm việc hành chính.

Tại phiên tòa, chị Lê Thị C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án:

- Đối với Thẩm Phán: đã thực đầy đủ các quy đinh của Bộ luật tố tụng dân sự và thực hiện đúng thời hạn xét xử.

- Đối với Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa: đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự:

Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị C; Tuyên bố chị Lê Thị C được ly hôn với anh Nguyễn Công T. Giao cháu Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 12/10/2006 và cháu Nguyễn Thị Z, sinh ngày 09/6/2011 cho chị Lê Thị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Công T không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị C không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật:

Chị Lê Thị C và anh Nguyễn Công T có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 08/12/2005 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kiết, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk. Nay chị Lê Thị C yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Công T nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp ly hôn và nuôi con chung.

Anh Nguyễn Công T có hộ khẩu thường trú tạm trú tại thôn 2, xã Ea Kiết, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Cư Mgar nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng anh Nguyễn Công T vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là phù hợp.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị C và anh Nguyễn Công T có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 08/12/2005 tại Ủy ban nhân dân xã Ea Kiết, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống giữa chị Lê Thị C và anh Nguyễn Công T thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, đời sống chung không hạnh phúc và anh T thường xuyên say xỉn, đánh đập vợ con. Nay chị Lê Thị C yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Công T, xét yêu cầu của chị Lê Thị C là phù hợp vì hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Lê Thị C.

Như vậy có thể thấy, hôn nhân giữa chị Lê Thị C và anh Nguyễn Công T đã trầm trọng, việc chị Lê Thị C yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Công T là chính đáng cần được chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Chị Lê Thị C và anh Nguyễn Công T có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 12/10/2006 và cháu Nguyễn Thị Z, sinh ngày 09/6/2011, hiện nay cháu Tr, Z đang được chị Lê Thị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, các cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ và chị Lê Thị Chung cũng có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu Nguyễn Thị Tr và Nguyễn Thị Quỳnh Z cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy xét nguyện vọng của chị Lê Thị C là chính đáng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay nên giao cháu Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 12/10/2006 và cháu Nguyễn Thị Z, sinh ngày 09/6/2011 cho chị Lê Thị Cg tiếp tục để chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị C không yêu cầu anh Nguyễn Công T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Lê Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng vào các Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị C

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị C được ly hôn với anh Nguyễn Công T Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 12/10/2006 và cháu Nguyễn Thị Z, sinh ngày 09/6/2011 cho chị Lê Thị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị C không yêu cầu anh Nguyễn Công T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Công T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình:

Chị Lê Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà chị Lê Thị C đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001081 ngày 27/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 về kiện ly hôn

Số hiệu:32/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về