Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về kiện xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 32/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số thụ lý số: 27/2020/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2020 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29/7/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2020/ QĐST-HNGĐ ngày 19/8/2020 giữa các đương sự:

1, Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; sinh năm: 1973;

Nơi ĐKNKTT: Số 64 đường Đ, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2, Bị đơn: Anh Trần Thanh T; sinh năm: 1974;

Nơi ĐKNKTT: Số 64 đường Đ, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Bình Anh Trần Thanh T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 04/02/2020, được bổ sung tại bản tự khai, cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về tình cảm: Chị và anh Trần Thanh T đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Quảng Bình vào ngày 27/10/2004, kết hôn trên tinh thần tự nguyện. Trong cuộc sống gia đình xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh T hay uống rượu nên nói năng nặng nề khó chịu, làm chị xấu hổ với xóm làng. Nhiều lần chị khuyên bảo nhưng anh T không thay đổi được. Do quan điểm sống trong gia đình và các vấn đề khác không đồng thuận, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Hiện nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015. Trước đây vào năm 2015, 2019 chị T đã hai lần nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, nhưng một phần vì con cái còn nhỏ, một phần chị suy nghĩ tạo điều kiện cơ hội để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái nên chị đã rút đơn ly hôn. Đến nay chị nhận thấy không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân được nữa, việc tiếp tục chung sống chỉ làm khổ cả hai người, không ai tin tưởng ai, cuộc sống chung thực sự bế tắc. Vì vậy, nguyện vọng của chị là xin được ly hôn anh Trần Thanh T để ổn định cuộc sống.

Trong bản tự khai ngày 14/5/2020 anh T trình bày: Ngày tháng năm và nơi đăng ký kết hôn với chị T đúng như lời khai của chị T. Anh chị kết hôn trên tinh thần tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc. Sau đó có phát sinh mâu thuẫn nhưng không đáng kể là do anh có uống rượu nhưng tồn tại đó anh có thể khắc phục được. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn mà xin đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con cái.

Về con chung: Anh chị thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai con chung gồm cháu Trần Thị Thanh T, sinh ngày 13/10/2005 và cháu Trần Hữu Đ, sinh ngày 03/12/2009.

Chị T có ý kiến mong Tòa án xem xét nguyện vọng của các con chị, muốn ở với ba hay mẹ là tùy vào hai con. Trường hợp cả hai con ở với mẹ thì mỗi tháng yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/ tháng còn nếu cả hai con ở với ba thì chị T sẽ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/ tháng đến khi con chung tròn 18 tuổi; hoặc mỗi bên nuôi một cháu thì không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Anh T có ý kiến nếu trường hợp vợ chồng ly hôn thì tùy vào hai con ở với ai là lựa chọn của các con.

Tại bản trình bày ý kiến ngày 16/8/2020, cháu Trần Thị Thanh T có nguyện vọng được ở cùng mẹ T; cháu Trần Hữu Đ có nguyện vọng được ở cùng ba T.

Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã tiến hành triệu tập các bên đương sự đến làm bản tự khai, gửi giấy triệu tập cho các bên đương sự, tiến hành hai phiên hòa giải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; là nơi bị đơn anh T có đăng ký nhân khẩu thường trú: phường T, thành phố Đồng Hới. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã ra thông báo thụ lý vụ án và gửi cho các bên đương sự kèm theo giấy triệu tập đến Tòa án, thông báo về phiên hòa giải, tiếp cận chứng cứ nhưng anh T chỉ đến Tòa án làm bản tự khai còn sau đó không đến tham gia buổi công khai chứng cứ, hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được, nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo luật định. Ngày 19/8/2020 Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới nhưng bị đơn anh T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất. Do đó, HĐXX ra Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19/8/2020 và ấn định thời gian xét xử vào ngày 15/9/2020 theo đúng quy định tại Điều 227, 233 Bộ luật tố tụng dân sự; Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐST- HNGĐ ngày 29/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã phân công bà Nguyễn Thị Ngân Hà và bà Nguyễn Thị Vòng – Hội thẩm nhân dân chính thức, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, bà Đặng Thị Thu – Hội thẩm nhân dân dự khuyết tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án này nhưng vì lý do bận công việc đột xuất nên Hội thẩm nhân dân chính thức và Hội thẩm nhân dân dự khuyết không tham gia phiên tòa được nên thay Hội thẩm nhân dân ông Trần Xuân Văn và ông Trần Đình Sang tham gia phiên tòa theo Quyết định thay đổi Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa số 35/QĐ-TĐHTND ngày 08/9/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới. Bị đơn anh T vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 mặc dù đã được triệu tập hợp lệ; HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, phiên tòa vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh T.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Trần Thanh T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cấp có thẩm quyền. Vì vậy, hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp; anh chị đã có thời gian khá dài chung sống hạnh phúc; lẽ ra anh chị phải biết thương yêu, nhường nhịn, tôn trọng, tin tưởng nhau cùng nhau chia sẻ khó khăn xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ngược lại anh chị không làm được điều đó để giữ gìn hôn nhân bền vững, cuộc sống chung vợ chồng trong nhiều năm gần đây luôn xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng bất đồng trong cách sống, cách xử sự với nhau, thiếu tin tưởng nhau, từ đó vợ chồng có những lời nói và hành động xử sự xúc phạm đến danh dự, uy tín của nhau, thiếu bàn bạc thống nhất vợ chồng, tình cảm vợ chồng mất mát dần. Trước đây vào năm 2015, 2019 chị T đã hai lần nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, nhưng sau đó quay về tìm cách khắc phục nhưng đến nay mâu thuẫn vẫn trầm trọng. Mâu thuẫn của vợ chồng đã kéo dài từ nhiều năm nay nhưng hai bên không thể khắc phục và ngày càng căng thẳng do không tìm được tiếng nói chung; đã nhiều năm nay vợ chồng sống ly thân không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng trong thực tế đời sồng.

Tại Đơn trình bày đề ngày 17/8/2020 của chị T gửi Tòa án trình bày quá trình chung sống anh chị không hòa thuận do anh T hay uống rượu say nói năng nặng nề, xúc phạm chị, bạn bè, xóm làng. Chị đã chịu đựng, khuyên bảo và cho anh T cơ hội rất nhiều nhưng cũng không thay đổi gì nên chị mong muốn được ly hôn. Đơn có chữ ký của Tổ trưởng Tổ dân phố 5 và xác nhận của UBND phường T đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết đơn trình bày của chị T.

Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên kiên quyết xin được ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn xin được đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con chung. Anh T biết rõ vụ kiện nhưng cũng không có ý gì muốn níu kéo hôn nhân mà thờ ơ để mặc, anh cũng không mong muốn được Tòa án hòa giải, thể hiện ở việc anh không đến tham gia các phiên họp, làm việc, hòa giải mà Tòa án triệu tập. Điều đó thể hiện rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục, tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể sống chung hạnh phúc nên cần thiết phải cho chị T được ly hôn anh T là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Anh chị thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai con chung gồm cháu Trần Thị Thanh T, sinh ngày 13/10/2005 và cháu Trần Hữu Đ, sinh ngày 03/12/2009.

Chị T có ý kiến mong Tòa án xem xét nguyện vọng của các con chị, muốn ở với ba hay mẹ là tùy vào hai con. Trường hợp cả hai con ở với mẹ thì mỗi tháng yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/ tháng còn nếu cả hai con ở với ba thì chị T sẽ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/ tháng đến khi con chung tròn 18 tuổi; hoặc mỗi bên nuôi một cháu thì không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai. Anh T có ý kiến nếu trường hợp vợ chồng ly hôn thì tùy vào hai con ở với ai là lựa chọn của các con.

Xét ý kiến của anh chị đều tôn trọng quyết định của các con, muốn ở với ai là tùy vào các con, điều đó cũng hợp lý, hợp tình. Tại bản trình bày ý kiến ngày 16/8/2020, cháu Trần Thị Thanh T có nguyện vọng được ở cùng mẹ T; cháu Trần Hữu Đ có nguyện vọng được ở cùng ba T. Anh chị đều có đủ điều kiện để nuôi dưỡng các con tốt. Do đó, cần giao con chung cho anh chị mỗi người nuôi một cháu, cụ thể chị T nuôi cháu Trần Thị Thanh T, anh T nuôi cháu Trần Hữu Đ. Không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung:

Chị Nguyễn Thị T và anh Trần Thanh T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0006282 ngày 13/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

[4] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 / 2016/ UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Trần Thanh T.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cháu Trần Thị Thanh T, sinh ngày 13/10/2005 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Trần Hữu Đ, sinh ngày 03/12/2009 cho anh Trần Thanh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom chăm sóc con chung;

không ai được ngăn cản người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/ 0006282 ngày 13/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Án xử công khai, báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/9/2020); bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:32/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về