Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10/7/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1989; địa chỉ: Hạnh Côn, Đồng Cạn, T, M, Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1986; địa chỉ: Xóm 1, xã A, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 5 năm 2019 và trong quá trình giải quyết xét xử tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã A, huyện S, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 13/5/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không chịu khó làm ăn, lấy tài sản của bố mẹ vợ đi cầm cố, không quan tâm đến vợ con. Chị và anh T đã sống ly thân nhau từ năm 2012 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con: Vợ chồng có 01 con chung tên là Bùi Thị Thảo V, sinh ngày 26/5/2011. Hiện nay cháu đang ở với chị, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Tại đơn khởi kiện, chị yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tại bản tự khai và tại phiên tòa, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn Bùi Văn T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã giao thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ cho anh T, nhưng anh T cố tình vắng mặt, không đến Tòa án để thực hiện việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên, tại đơn đề nghị đề ngày 27/5/2019, anh T trình bày: Vợ chồng không có tài sản chung và anh nhất trí giao con cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Tòa án cũng đã giao quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng phiên tòa ngày 10/7/2019, anh T vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX) quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ Luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vẫn vắng mặt nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh T.

Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên nên Tòa án tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo quy định tại khoản 3 Điều 208 BLTTDS.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D vẫn giữ nguyên quan điểm về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

- Vệc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về Vệc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Chị Nguyễn Thị D có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Bùi Văn T. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Ngày 10/7/2019, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử lần thứ nhất, anh T vắng mặt không có lý do nên phải hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử lần hai vắng mặt anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Bùi Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện S, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 13/5/2010 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị D trình bày là do anh T không chăm lo làm ăn, lấy tài sản của bố mẹ vợ đi cầm cố và không quan tâm đến vợ con. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2012 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa, việc níu kéo cũng chỉ thêm đau khổ cho cả hai bên nên chị yêu cầu được ly hôn anh Bùi Văn T, chứng tỏ tình cảm của chị D đối với anh T không còn. Mặc dù anh T đã được nhận các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh T không đến Tòa án làm việc. Tại đơn đề nghị đề ngày 27/5/2019, anh T đề nghị Tòa án xem xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Như vậy, chứng tỏ anh T cũng không tha thiết gì đến việc hàn gắn hôn nhân, níu kéo tình cảm vợ chồng. Tại biên bản xác minh ngày 24/5/2019, xóm trưởng xóm 1, xã A cho biết nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trong cách làm ăn. Một số thông tin còn cho biết anh T và chị D có nghi ngờ lẫn nhau rằng bên kia có quan hệ ngoài luồng với người khác. Hiện tại chị D và anh T đã ly thân, chị D và con gái về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. HĐXX thấy cuộc hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần giải quyết cho chị D được ly hôn anh T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con: Chị D và anh T có 01 con chung là Bùi Thị Thảo V, sinh ngày 26/5/2011. Chị D có nguyện vọng trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tại đơn đề nghị đề ngày 27/5/2019, anh T cũng đồng ý giao con cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy hiện nay cháu V đang ở với chị D, cháu VỀ còn nhỏ tuổi cần có sự chăm sóc của người mẹ nên cần xử giao cháu Bùi Thị Thảo V cho chị D trực tiếp nuồi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là phù hợp.

[4] Về tài sản: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị D là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị D, cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Bùi Văn T.

2. Về con: Giao cháu Bùi Thị Thảo V, sinh ngày 26/5/2011 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số AA/2017/0005065 ngày 03/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, chị D đã nộp đủ án phí DSST.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Bùi Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về