Bản án 32/2017/HSST ngày 22/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 32/2017/HSST NGÀY 22/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 8 năm 2017. Tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Tòa án nhân dân huyện Ba Bể xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 43/2017/HSST, ngày 28 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy V sinh năm 1981; Nơi ĐKNKTT: Tổ 15, phường S, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Duy S và bà Tống Thanh H; Vợ là Nguyễn Hồng N (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2017, nay có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Văn C sinh năm 1979, (vắng mặt)

Trú tại: thôn T, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.

2. Anh Hoàng Văn T sinh năm 1995, (vắng mặt)

Trú tại: thôn B, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Duy V bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 15/4/2017, tại nhà của Hoàng Văn C ở thôn T, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, Công an huyện B phối hợp với Công an xã M phát hiện các đối tượng Nguyễn Duy V, Hoàng Văn T và Hoàng Văn C vừa sử dụng xong ma túy. Qua kiểm tra đã phát hiện và thu giữ tại bên dưới xô đựng rác để ở trong vườn của Hoàng Văn C có một vỏ bao thuốc lá vinataba, mở ra bên trong có chứa 02 gói chất bột màu trắng nghi ma túy (Heroin), V thừa nhận là của V, số chất bột màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Duy V 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu nokia, 01 chiếc nhãn hiệu Masstel) và số tiền 1.367.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, đã tiến hành mở niêm phong phong bì ký hiệu A1 để cân xác định trọng lượng (khối lượng) 02 gói chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Duy V được 1,27 gam; đã niêm phong 1,27 gam chất bột màu trắng vào phong bì dán kín ký hiệu B1 và bàn giao cho Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn để trưng cầu giám định.

Tại kết luận giám định số: 60/KTHS-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 thu giữ của Nguyễn Duy V gửi đến giám định là chất ma túy (Heroin). Sau giám định, mẫu chất còn lại là 1,162 gam đã được niêm phong cùng phong bì, bao gói cũ và phong bì mới ký hiệu T60 hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể.

Quá trình điều tra, Nguyễn Duy V khai nhận: Do quen biết với Hoàng Văn T nên khoảng 09 giờ ngày 15/4/2017, khi nhận được điện thoại của T rủ lên xã M, huyện B chơi, V đồng ý. Vì bản thân là người nghiện chất ma túy (Heroin) nên trước khi đi, V ra Bến xe Thái Nguyên cũ thuộc tỉnh Thái Nguyên mua ma túy với một người đàn ông (không rõ danh tính) với số tiền là 2.000.000 đồng được 05 phân ma tuý (Heroin) dạng cục rồi mang theo với mục đích để bản thân sử dụng, sau đó V đi xe khách lên xã M, huyện B. Đến nơi, Hoàng Văn T đón V vào nhà Hoàng Văn C; tại nhà C, V lấy ma túy ra chia cho T, C cùng sử dụng, số ma tuý còn lại V cất ở trong người. Khi thấy Công an đến, sợ bị phát hiện V đã đi ra ngoài vườn ở phía sau nhà C và đem ma túy giấu bên dưới xô nhựa đựng rác nhưng đã bị phát hiện và thu giữ, ngoài ra V còn bị thu giữ 02 chiếc điện thoại di động và số tiền 1.367.000 đồng.

Các đối tượng Hoàng Văn T, Hoàng Văn C khai nhận: Bản thân đều nghiện ma túy (Heroin), ngày 15/4/2017, T gọi điện bảo V đến chơi, khi gặp V, T đã dẫn V đến nhà C; cả hai người được V chia ma túy (Heroin) để sử dụng, khi Công an đến cả ba người vừa sử dụng ma túy xong, số ma túy có trọng lượng 1,27 gam thu được dưới xô đựng rác tại nhà C là của V.

Như vậy, Nguyễn Duy V đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của V phù hợp lời khai của những người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 29/KSĐT, ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Điều luật có nội dung:

 “1. Người nào tàng trữ ...trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Tuy nhiên, tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

... c) Hêrôin …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”…

Như vậy, khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt nhẹ hơn so với quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009; vận dụng các quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017, cần xem xét áp dụng điều luật có lợi cho bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án.

*Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng.

XÉT THẤY

Ngày 15/4/2017, Nguyễn Duy V, Hoàng Văn C và Hoàng Văn T vừa sử dụng xong ma túy tại nhà của Hoàng Văn C ở thôn T, xã M, huyện B, tỉnh Bắc Kạn thì bị Cơ quan Công an phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại nhà C, Công an đã phát hiện và thu giữ được của V 02 gói chất bột màu trắng, 02 điện thoại di động và số tiền 1.367.000 đồng. Cơ quan chức năng kết luận: 02 gói chất bột màu trắng thu được của Nguyễn Duy V có trọng lượng (khối lượng) là 1,27 gam là chất ma túy (Heroin).

Hành vi nêu trên của Nguyễn Duy V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Theo Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội này được quy định tại Điều 249. Mặc dù, BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật, song một số quy định có lợi cho người phạm tội vẫn được xem xét áp dụng cho bị cáo trong quá trình xét xử để thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước. Căn cứ vào điểm b khoản 1, điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 thì: “Điều luật ... quy định một hình phạt nhẹ hơn ... có lợi hơn thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

So sánh quy định về hình phạt thấy rằng: Khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Trong khi khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt nhẹ hơn so với điều luật cũ, nên cần áp dụng khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 để tuyên xử đối với bị cáo mới chính xác. Do đó, cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7/BLHS 2015; điểm b khoản 1, điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 đối với Nguyễn Duy V.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây là cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, an ninh xã hội. Vì vậy, phải được xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

*Xét về nhân thân bị cáo:

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp khoản tiền 5.200.000 đồng để thi hành án cho bị cáo; Bị cáo có ông bà nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến và mẹ đẻ được tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục.

Trong vụ án này, theo lời khai của Nguyễn Duy V: Nguồn gốc số ma túy V tàng trữ, V mua với một người đàn ông không rõ họ, tên, địa chỉ tại bến xe khách cũ tỉnh Thái Nguyên. Do vậy, không có căn cứ để điều tra, xác minh.

*Về vật chứng của vụ án:

- 01 (một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T60, bên trong chứa mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại là 1,162 gam cùng phong bì, bao gói cũ, tình trạng niêm phong vẫn còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi mẫu hoàn trả vụ số 60 Nguyễn Duy V (1981) ký hiệu “T60”, mặt sau có 04 chữ ký không đọc được cùng 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn. Không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masster và số tiền 1.367.000đ (một triệu ba trăm sáu mươi bảy nghìn đồng), không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 5.200.000 đồng (năm triệu hai trăm nghìn đồng) gia đình bị cáo Nguyễn Duy V đã tự nguyện nộp cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể, cần tạm giữ để thi hành án cho bị cáo.

*Hình phạt bổ sung và án phí:

Bị cáo phải chịu thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền và án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Duy V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

*Áp dụng: khoản 1, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b Khoản 1, điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Duy V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/4/2017.

- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Duy V 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Việc thi hành án khoản tiền phạt được thực hiện theo Điều 357 Bộ luật dân sự.

2. Về vật chứng:

Áp dụng: Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì đã được niêm phong ký hiệu T60, bên trong chứa 1,162 gam chất ma túy.

- Trả lại cho Nguyễn Duy V: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masster và số tiền 1.367.000 đồng (một triệu ba trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).

 (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/7/2017 giữa Công an huyện Ba Bể và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể).

- Số tiền 5.200.000 đồng (năm triệu hai trăm nghìn đồng) gia đình bị cáo Nguyễn Duy V đã tự nguyện nộp cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể, cần tạm giữ để thi hành án cho bị cáo.

3. Về án phí:

Áp dụng: Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí. Buộc bị cáo Nguyễn Duy V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự” - Theo Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2017/HSST ngày 22/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về