Bản án 321/2019/DS-PT ngày 30/07/2019 về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 321/2019/DS-PT NGÀY 30/07/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 508/2018/TLPT-DS ngày 27 tháng 12 năm 2018 về “Về việc tranh chấp đòi quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2018/DS-ST ngày 24/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1262/2018/QĐPT-DS ngày 27 tháng 6 năm 2017; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trầm Mỹ H (có mặt)

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương Hoàng M; Cùng địa chỉ cư trú: 368 ấp TQ A, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (theo giấy ủy quyền ngày 01/11/2016, có mặt).

- Bị đơn: Ông Trầm Dù H1 (Trầm Dù H1); Địa chỉ cư trú: ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng

Người đại diện theo pháp luật của UBND huyện C: Ông Trần Quốc Thắng; Chức vụ: Chủ tịch

Người đại diện hợp pháp của UBND huyện C: Bà Lâm Khánh Ph; Chức vụ: Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C, tỉnh Sóc Trăng (văn bản uỷ quyền số 23 ngày 18/9/2018, vắng mặt).

2/ Bà Trà Thị Ng; Địa chỉ cư trú: ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1/ Bà NLC1; Địa chỉ cư trú: 03, ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

2/ Bà NLC2; Địa chỉ cư trú: ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

3/ Bà NLC3; Địa chỉ cư trú: 48, ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

4/ Ông NLC4; Địa chỉ cư trú: 55, ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

5/ Bà NLC5; Địa chỉ cư trú: 59, ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

6/ Bà NLC6; Địa chỉ cư trú: ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Ông Trầm Dù H1 là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn, người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Ngun gốc diện tích đất 5.200m2 (đo đạc thực tế 6.094m2), tại thửa 416, tờ bản đồ số 08, loại đất 2L, tọa lạc tại ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C là một phần trong tổng số đất gốc của cha mẹ ruột của bà H canh tác từ trước năm 1975. Sau khi cha mẹ qua đời thì để lại cho các anh em của bà quản lý và canh tác. Đến năm 1987 thì tất cả các anh chị em trong gia đình họp lại và đã tiến hành phân chia phần đất của cha mẹ chết để lại. Trong đó, bà H được chia 04 công đất ruộng tầm 3m (diện tích 5.200m2). Sau đó, ông H1 đã hoán đổi 04 công đất ruộng của bà để canh tác cho liền canh, liền cư, còn bà nhận lại 04 công đất ruộng tại thửa 416 hiện nay, trong đó có phần mộ của mẹ ruột bà.

Sau khi được chia, vợ chồng bà canh tác được 02 năm nhưng do điều kiện canh tác khó khăn, năng suất thấp nên năm 1989 vợ chồng bà đã cố phần đất này cho ông Trần Văn Ph (Sáu Phần) với giá 04 chỉ vàng 24k, việc cố đất có lập giấy tay, có ông Trầm Dù H1 ký xác nhận làm chứng việc cố đất.

Vào năm 1991 ông Trầm Dù H1 đã làm thủ tục kê khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt GCNQSDĐ) dùm cho bà.

Đến ngày 16/10/1991 bà H đã được Ủy ban nhân dân (gọi tắt là UBND) huyện Mỹ Tú (nay là UBND huyện C) cấp GCNQSDĐ số B 715304. Đến năm 1992, ông H1 có đến nói với bà là đất của ông H1 đã bán hết rồi nên muốn xin chuộc lại đất mà bà đã cố cho ông Ph để canh tác. Do là chỗ anh em ruột nên vợ chồng bà đồng ý cho ông H1 bỏ ra số vàng 04 chỉ vàng 24k để chuộc lại phần đất đã cố cho ông Ph. Từ đó, phần đất ruộng này giao cho ông H1 quản lý, canh tác và chăm lo, sửa sang lại phần mộ của mẹ bà.

Phần đất này bà chỉ cố cho ông Ph vào năm 1989 cho đến năm 1992 thì chuộc về cố lại cho ông Trầm Dù H1 quản lý, canh tác, chứ không có sang bán cho bất kỳ ai nhưng trong quá trình sử dụng và làm hồ sơ thể hiện ông H1 sang bán đất của ông H1 cho bà Trà Thị Ng (tự Bảy Súng) thì ông H1 đã giả mạo chữ ký để lập thủ tục sang bán thửa đất của bà H cho bà Trà Thị Ng, do đó khi bà khiếu nại đến cấp có thẩm quyền, ông H1 lại lập thủ tục trao đổi lại với bà Ng để đăng ký lại quyền sử dụng đất tại thửa 416 này cho ông H1 đứng tên quyền sử dụng đất là không đúng quy định của pháp luật về đất đai. Do đó, bà yêu cầu:

1/ Buộc ông Trầm Dù H1 phải giao trả lại cho bà phần diện tích đất ruộng có diện tích đo đạc thực tế là 6.094m2, tại thửa 416, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C. Bà đồng ý trả lại cho ông H1 04 chỉ vàng 24k mà ông H1 đã bỏ ra để chuộc lại đất của ông Ph vào năm 1992.

2/ Yêu cầu thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là GCNQSDĐ số BN 815292, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01837 do Ủy ban nhân dân huyện C đã cấp lại cho ông Trầm Dù H1 đứng tên quyền sử dụng đất vào ngày 16/7/2013.

Tại các biên bản lấy lời khai ngày 20/12/2016, 16/8/2016, 26/9/2018 và tờ tường trình ngày 24/5/2017, ngày 25/01/2018 cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn ông Trầm Dù H1 trình bày:

Phần đất tranh chấp tại thửa 416, diện tích đo đạc thực tế là 6.094m2, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, trong đó: phần đất có diện tích 5.200m2 thể hiện theo như GCNQSDĐ có nguồn gốc là của cha mẹ ông để lại cho ông. Năm 1987 phần đất này được đưa vào tập đoàn và tập đoàn giao lại cho bà Trầm Mỹ H – em gái ông đứng tên nhưng ông vẫn là người trực tiếp canh tác từ năm 1975, sau đó đến năm 1989 ông cho bà H mượn đất để cố lại cho ông Trần Văn Ph với giá 4 chỉ vàng 24K để lấy vốn buôn bán. Năm 1991 ông đi đăng ký quyền sử dụng đất thửa 416 cho bà H. Năm 1992 đến hạn chuộc lại đất nhưng bà H nói “Ai làm gì làm” nên ông bỏ ra 4 chỉ vàng để chuộc lại phần đất thửa 416 từ ông Ph rồi canh tác, đến năm 2013 thì ông tự kê khai đăng ký quyền sử dụng đất thửa 416. Từ năm 1991 đến năm 2013, GCNQSDĐ thửa 416 do bà H đứng tên do ông cất giữ. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Trầm Mỹ H, nếu bà H muốn lấy lại 5.200m2, thửa đất 416 thì phải trả lại cho ông giá trị phần đất theo như giá thị trường. Đối với phần đất có diện tích 894m2 còn lại của thửa đất 416 là do ông khai hoang mở mang thêm nên ông không đồng ý trả lại cho bà H.

Ngoài ra ông xác định từ trước đến nay ông không chuyển nhượng, sang bán phần đất tranh chấp cho ai, ông cũng không đổi phần đất nào với bà Trà Thị Ng. Trước đây ông có bán phần đất hiện là đất vườn của bà Ng cho ông Lê Trọng S, sau đó ông S bán lại cho bà Ng. Hiện thửa đất 416 do ông trực tiếp quản lý canh tác, không thế chấp hoặc cầm cố cho ai vì GCNQSDĐ đã hết thời hạn.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/5/2017, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trà Thị Ng trình bày: Bà không nhận chuyển nhượng phần đất thửa 416 từ bà Trầm Mỹ H. Theo bà được biết thì phần đất thửa 416 hiện do ông Trầm Dù H1 canh tác không đưa vào tập đoàn mà có nguồn gốc là của cha mẹ ông Trầm Dù H1, bà Trầm Mỹ H để lại, sau đó anh chị em trong gia đình ông H1, bà H chia lại đất cho bà H. Sau khi được chia đất thì bà H cố đất cho ông Ph, giá 4 chỉ vàng, được một thời gian thì ông H1 thỏa thuận với bà H để ông H1 chuộc lại đất từ ông Ph để canh tác thì được bà H đồng ý. Sau này bà H chuộc lại đất từ ông H1 nhưng ông H1 không đồng ý trả lại.

Tại Văn bản số 261/UBND-VP, ngày 07/4/2017; 672/UBND-VP, ngày 18/10/2018, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng trình bày:

Tha đất 416, tờ bản đồ số 08, tọa lạc ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C (trước đây là huyện Mỹ Tú), tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là do cha mẹ ruột cho bà Trầm Mỹ H. Đến ngày 16/10/1991 bà H được cấp GCNQSDĐ số A 715304, diện tích 5.200m2, loại đất lúa. Phần đất này bà H cố cho ông Trần Văn Ph với giá 04 chỉ vàng 24K, thời hạn là 03 năm. Đến năm 1992 thì ông Trầm Dù H1 chuộc lại canh tác, có sự đồng ý của bà Trầm Mỹ H và ông Dương Hoàng M. Năm 2003 ông Trầm Dù H1 tự ý chuyển nhượng đất của bà Trầm Mỹ H thửa 416 cho bà Trà Thị Ng. Sau đó ông Trầm Dù H1 đổi đất với bà Trà Thị Ng, tức bà Ng lấy phần đất thửa 372, tờ bản đồ số 8, diện tích 9.100m2 của ông Trầm Dù H1 và ông Trầm Dù H1 lấy lại thửa 416. Đến năm 2013 ông Trầm Dù H1 được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất 416, diện tích 5.200m2. Phần đất trên không thuộc tập đoàn quản lý.

Việc cấp GCNQSDĐ thửa đất 416 cho bà Trầm Mỹ H là do UBND huyện Mỹ Tú cấp ngày 16/10/1991 là cấp đại trà, theo đơn đăng ký có xác nhận của Hội đồng đăng ký đất đai xã xác nhận đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm đăng ký. Đối với việc cấp GCNQSDĐ cho ông Trầm Dù H1 (Trầm Dù H1), thửa 416, tờ bản đồ số 08, tọa lạc ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng do UBND huyện C cấp ngày 16/7/2013 là căn cứ vào Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất giữa bà Trà Thị Ng với ông Trầm Dù H1, không đo đạc thực tế và đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm đăng ký.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2018/DS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử:

Áp dụng khoản 3 Điều 26, Điều 34, Điều 37, khoản 1 Điều 39, các khoản 1, 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 157, Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;

Áp dụng Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;

Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2916/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trầm Mỹ H.

1/ Buộc bị đơn ông Trầm Dù H1 trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 6.094m2, tại thửa 416, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp Lý Dươl, số đo 84,1m; Hướng Tây giáp Trần Phiêu, số đo 83,8m; Hướng Nam giáp Trường Tiểu học HĐK C, giáp lò bánh pía Hải Sơn và giáp phần đất của ông Trầm Dù H1, số đo 5,7m + 67,8m; Hướng Bắc giáp ông NLC4, số đo 70,6m (có sơ đồ kèm theo).

2/ Buộc nguyên đơn bà Trầm Mỹ H trả lại cho bị đơn ông Trầm Dù H1 04 chỉ vàng 24K. Khi thực hiện trả vàng, phải quy đổi vàng thành tiền theo giá thị trường (giá bán ra) tại thời điểm thi hành án.

3/ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 815292, do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Trầm Dù H1 (Trầm Dù H1) vào ngày 16/7/2013, đối với thửa đất 416, diện tích 5.200m2 (đo đạc thực tế 6.094m2), tờ bản đồ số 8, tọa lạc ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 522422 ngày 13/6/2003 đối với thửa đất 416, diện tích 5.200m2 do Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Tú cấp cho bà Trà Thị Ng. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 29/5/2003, giữa bà Trầm Thị Huệ (Trầm Mỹ H) với bà Trà Thị Ng và hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, ngày 26/10/2009, giữa ông Trầm Dù H1 với bà Trà Thị Ng vô hiệu.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; chi phí định giá, chi phí giám định và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 01/11/2018, ông Trầm Dù H1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ông H1 yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn - bà Trầm Mỹ H và người đại diện hợp pháp không thay đổi, bổ sung, không rút đơn khởi kiện, yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị đơn - ông Trầm Dù H1 không thay đổi, bổ sung, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo ban đầu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà nên không thể hiện ý kiến. Các đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát biểu ý kiến như sau:

1/ Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Trầm Dù H1 làm trong hạn luật định, có hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận về mặt hình thức.

2/ Về nội dung kháng cáo: Xét thấy, Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, các báo cáo xác minh của cơ quan có thẩm quyền, quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lời khai của các nhân chứng, nên tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H, là có căn cứ, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Trầm Dù H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo của ông Trầm Dù H1: Đơn kháng cáo của các ông H1 làm trong hạn luật định, có nội dung, hình thức phù hợp với quy định của pháp luật và đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm, nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của ông Trầm Dù H1, nhận thấy:

[2.1] Về nguồn gốc, quá trình sử dụng phần đất tranh chấp:

Bà Trầm Mỹ H và ông Trầm Dù H1 cùng xác định phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 6.094m2, thuộc thửa 416, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc của cha, mẹ để lại. Ngày 08/11/1989, bằng giấy tay, bà H cố phần đất này cho ông Trần Văn Ph để nhận 04 chỉ vàng 24K, thời hạn cố là 03 năm. Năm 1991, ông H1 làm thủ tục kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất nhưng đứng tên bà H đứng tên và ông H1 cất giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1992, ông H1 bỏ ra 04 chỉ vàng 24K, chuộc lại đất từ ông Ph (ông Ph chết nên ngày 03/11/2009, các con của ông Ph xác nhận). Xét thấy, các tình tiết nêu trên không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Công văn số 261/UBND-VP, ngày 07/4/2017 của UBND huyện C; lời khai của những người làm chứng là ông NLC4, bà NLC2, NLC1...(bút lục 168-185), thì việc ông H1 cho rằng, trước đây phần đất tranh chấp được đưa vào tập đoàn, khi giải thể thể thì tập đoàn giao lại cho bà H nhưng ông là người trực tiếp sử dụng và cho bà H mượn để cố cho ông Ph là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

Căn cứ vào lời khai của bà Trà Thị Ng (bút lục 162-164), ông Lê Trọng S (bút lục 411-413), Kết luận giám định chữ ký số 164/PC540-GĐ ngày 10/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng (bút lục 221) và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua các thời kỳ, Hội đồng xét xử nhận thấy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận quá trình cấp giấy chứng nhận đối với phần đất tranh chấp như sau: Năm 1991, UBND huyện Mỹ Tú (nay là huyện C) cấp giấy chứng nhận số A715304 cho bà H. Trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giả ngày 29/5/2003 giữa bà Ng và ông H1, năm 2003, bà Ng được UBND huyện Mỹ Tú cấp giấy chứng nhận số X522422. Ngày 26/10/2009, bà Ng và ông H1 lập hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, theo đó, ông H1 lấy thửa 416, bà Ng lấy thửa 372 và ông H1 đã được cấp giấy chứng nhận số BN815292.

Về diện tích đất tranh chấp: Theo đo đạc thực tế lớn hơn diện tích ghi trong giấy chứng nhận là 894m2. Ông H1 cho rằng phần diện tích tăng thêm này là do ông khai hoang mở rộng thêm. Tuy nhiên, tại Công văn số 672/UBND-VP, ngày 18/10/2018 của UBND huyện C (bút lục 423) xác định, phần đất thửa 416 khi cấp GCNQSDĐ cho ông H1 năm 2013 không có đo đạc thực tế; phần diện tích đất có tăng thêm nhưng ranh giới thửa đất không thay đổi so với ranh giới tại thời điểm cấp giấy chứng nhận và không có tranh chấp với người sử dụng đất liên kề, nên việc ông H1 cho rằng phần diện tích đất 894m2 là do ông khai hoang là không có cơ sở.

Từ những phân tích nêu trên, xét thấy, Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc Hưng trả lại thửa đất 416, tờ bản đồ số 08, buộc bà H trả lại cho ông H1 04 chỉ vàng 24K và huỷ các hợp đồng liên quan, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có căn cứ, đúng pháp luật.

Kháng cáo của ông H1 là không có căn cứ để chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà là có căn cứ, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên ông H1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Bởi những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,

[1] Không chấp nhận kháng cáo của ông Trầm Dù H1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2018/DSST ngày 24/10/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Áp dụng khoản 3 Điều 26, Điều 34, Điều 37, khoản 1 Điều 39, các khoản 1, 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 157, Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;

Áp dụng Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;

Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2916/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trầm Mỹ H.

1/ Buộc bị đơn ông Trầm Dù H1 trả lại cho bà Trầm Mỹ H phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 6.094m2, thuộc thửa 416, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Phần đất nêu trên có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp Lý Dươl, số đo 84,1m; Hướng Tây giáp Trần Phiêu, số đo 83,8m;

ớng Nam giáp Trường Tiểu học HĐK C, giáp lò bánh pía Hải Sơn và giáp phần đất của ông Trầm Dù H1, số đo 5,7m + 67,8m;

ớng Bắc giáp ông NLC4, số đo 70,6m (có sơ đồ kèm theo).

2/ Buộc nguyên đơn bà Trầm Mỹ H trả lại cho bị đơn ông Trầm Dù H1 04 (bốn) chỉ vàng 24K. Khi thực hiện trả vàng, phải quy đổi vàng thành tiền theo giá thị trường (giá bán ra) tại thời điểm thi hành án.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3/ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN815292, do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Trầm Dù H1 (Trầm Dù H1) vào ngày 16/7/2013, đối với thửa đất 416, diện tích 5.200m2 (đo đạc thực tế 6.094m2), tờ bản đồ số 8, tọa lạc ấp XĐ B, xã HĐK, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

4/ Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X522422 ngày 13/6/2003 đối với thửa đất 416, diện tích 5.200m2 do Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Tú cấp cho bà Trà Thị Ng.

5/ Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 29/5/2003, giữa bà Trầm Thị Huệ (Trầm Mỹ H) với bà Trà Thị Ng và Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất lập ngày 26/10/2009, giữa ông Trầm Dù H1 với bà Trà Thị Ng vô hiệu.

[2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trầm Dù H1 phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng. Được trừ vào 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 5692 ngày 05/11/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Ông H1 đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 321/2019/DS-PT ngày 30/07/2019 về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:321/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về