Bản án 312/2020/HSPT ngày 30/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG

BẢN ÁN 312/2020/HSPT NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 194/2020/TLPT-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Lê Thị Thảo N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2020/HS-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1717/2020/QĐXXPT-HS ngày 18 tháng 9 năm 2020.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị Thảo N. Sinh ngày 4/6/1979; nơi cư trú: Thôn 3, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th (đã chết) và bà Dương Thị K, sinh năm 1954; gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ ba; có chồng là Nguyễn Tiến T, sinh năm 1980 và có 04 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Không; hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: ông Lê Đình Q, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người bị hại: Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên HC Việt Nam (gọi tắt là Công ty HC); trụ sở: Tầng G, 8 và 10 tòa nhà P1, số 20 đường N1, phường T1, quận Y, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông D Mosolov, tổng giám đốc công ty 3. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Bảo K1 (giấy ủy quyền ngày 16/7/2020). Có mặt

* Người làm chứng:

- Huỳnh Quang Đ, sinh năm 1995. Trú tại: Tổ 15, phường Y1, thành phố P, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

- Mai Thị Thùy N, sinh năm 1992. Trú tại: Thôn M, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

- Nguyễn Thị N, sinh năm 1992. Trú tại: 38 đường L, tổ 11, thị trấn K2, huyện K2, tỉnh Gia Lai (có đơn vắng mặt)

- Trần Thị Thu H, sinh năm 1989. Trú tại: Thôn 4, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

- Lưu Thị B, sinh năm 1997. Trú tại: Thôn T1, xã 13, huyện P1, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

- Nguyễn Tiến T2, sinh năm 1980. Trú tại: Thôn 3, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai (vắng mặt-đang bị tạm giam trong vụ án khác).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a. Về hành vi vi phạm của Lê Thị Thảo N:

Công ty tài chính TNHH MTV HC Việt Nam (Công ty HC) hoạt động trong lĩnh vực tài chính có 100% vốn nước ngoài. Khi khách hàng đến các cửa hàng bán xe máy, điện thoại di động và hàng điện tử gia dụng để mua sản phẩm nhưng không đủ tiền thì Công ty HC hỗ trợ khách hàng bằng cách ký hợp đồng tín dụng với khách hàng để cho vay tiền. Theo quy định của Công ty HC, để được ký Hợp đồng tín dụng vay tiền thì khách hàng phải có giấy chứng minh nhân dân (CMND) hoặc giấy phép lái xe và sổ hộ khẩu bản chính, khách hàng phải có mặt tại thời điểm thực hiện hợp đồng vay để Công ty HC chụp hình khách hàng và các giấy tờ trên lưu vào hồ sơ. Từ ngày 30/8/2018 đến ngày 27/10/2018, Lê Thị Thảo N đã làm giả và sử dụng các giấy CMND và sổ hộ khẩu mang tên người khác để ký 04 Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp với Công ty HC tại 04 địa điểm (03 điểm Gia Lai và 01 điểm Kon Tum) vay tổng số tiền 20.824.000đ để mua trả góp 04 điện thoại đến hẹn không trả, cụ thể như sau:

* Tại Gia Lai:

Lần thứ nhất: Ngày 30/8/2018, Lê Thị Thảo N sử dụng giấy CMND số 231488472 (đã thay ảnh của N) mang tên Thi Thị L1 (sinh năm 1980, địa chỉ thôn 3, xã D1, thành phố P, tỉnh Gia Lai) và sổ hộ khẩu số 4674 do Văn N1 là chủ hộ, trong sổ có tên Thi Thị L1 (có cùng thông tin cá nhân với CMND) đến Cửa hàng số 4 - FPT B (địa chỉ số 847 Đường P2, phường Y1, thành phố P, tỉnh Gia Lai), để mua một máy điện thoại OPPO F9 với giá là 7.690.000đ, N trả trước 2.307.000đ, số tiền còn lại N sử dụng giấy CMND và sổ hộ khẩu mang tên Thi Thị L1 ký Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3803665132 để vay số tiền 5.491.000đ với lãi suất 0%/năm, trong đó phí bảo hiểm hợp đồng vay là 108.000đ. Sau đó Công ty HC chuyển trả cho Cửa hàng số 4 - FPT B 5.383.000đ để trả vào số tiền N mua điện thoại.

Lần thứ hai: Ngày 25/10/2018, Lê Thị Thảo N sử dụng giấy CMND số 231927043 (đã thay ảnh của N) mang tên Nguyễn Thị L2 (sinh năm 1979, ĐKHKTT tại xã T3, thành phố P, tỉnh Gia Lai) và số hộ khẩu số 210189181 do Nguyễn Văn H1 là chủ hộ, trong sổ hộ khẩu có tên Nguyễn Thị L2 (sinh năm 1979, địa chỉ số nhà 174, tổ 9, phường A, thị xã A2, tỉnh Gia Lai) đến Cửa hàng Điện máy xanh A2 (địa chỉ số 245 đường T4, phường Đ1, thị xã A2, tỉnh Gia Lai), để mua một máy điện thoại OPPO F9 với giá là 7.690.000đ, N trả trước 2.307.000đ, số tiền còn lại N sử dụng giấy CMND và sổ hộ khẩu mang tên Nguyễn Thị L2 ký Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3804475655 với Công ty HC để vay số tiền 5.492.000đ với lãi suất 0%/năm, trong đó phí bảo hiểm hợp đồng vay là 109.000đ. Sau đó Công ty HC chuyển trả cho Cửa hàng Điện máy xanh A2 số tiền 5.383.000đ để trả tiền N mua điện thoại.

Lần thứ ba: Ngày 27/10/2018, Lê Thị Thảo N sử dụng giấy CMND số 230017772 (đã thay ảnh của N) mang tên Nguyễn Thị L3 (sinh năm 1978, HKTT tại xã I1, huyện 12, tỉnh Gia Lai) và sổ hộ khẩu số 46039 do Nguyễn Thị L3 (sinh năm 1978, địa chỉ đường đường T5, to 14, phường T6, thành phố P, tỉnh Gia Lai) là chủ hộ đến Cửa hàng Điện máy xanh K2 (địa chỉ tổ dân phố 7, thị trấn K2, huyện K2, tỉnh Gia Lai), mua một máy điện thoại SAMSUNG ss J8 với giá là 6.090.000đ, N trả trước 1.827.000đ, số tiền còn lại N sử dụng giấy CMND và sổ hộ khẩu mang tên Nguyễn Thị L3 ký Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3804503328 để vay số tiền 4.349.000đ với lãi suất 0%/năm, trong đó phí bảo hiểm hợp đồng vay là 86.000đ. Sau đó Công ty HC chuyển trả cho Cửa hàng Điện máy xanh K2 số tiền 4.263.000đ để trả tiền N mua điện thoại.

* Tại Kon Tum:

Lần thứ tư: Ngày 15/10/2018, Lê Thị Thảo N sử dụng giấy CMND số 230080703 (đã thay ảnh của N) mang tên Văn Thị P3 (sinh năm 1980, HKTT tại xã C1, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai) và sổ hộ khẩu số 1074683167 do Nguyễn Trần Thanh B là chủ hộ, trong sổ có tên Văn P3 (có cùng thông tin cá nhân với CMND) đến Cửa hàng Thế giới di động số 6 - Chi nhánh Công ty cổ phần Thế giới di động (địa chỉ 238 đường P4, phường D2, thành phố K3, tỉnh Kon Tum), mua một máy điện thoại OPPO F9 với giá là 7.690.000đ, N đã trả trước 2.307.000đ, số tiền còn lại N sử dụng giấy CMND và sổ hộ khẩu mang tên Văn Thị P3 ký Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3804338175 để vay số tiền 5.492.000đ với lãi suất 0%/năm, trong đó phí bảo hiểm hợp đồng vay là 109.000đ. Sau đó Công ty HC chuyển trả cho Cửa hàng Thế giới di động số 6 số tiền 5.383.000đ tiền N mua điện thoại.

Sau khi Công ty HC phát hiện các Hợp đồng vay tiền trên đã quá hạn không trả tiền gốc và lãi, nhân viên Công ty HC đã xác minh thì phát hiện Lê Thị Thảo N đã sử dụng các giấy tờ và thông tin giả mạo để ký các Hợp đồng vay tiền như trên, nên đã tố cáo Lê Thị Thảo N.

Qua điều tra, Lê Thị Thảo N không thừa nhận đã ký 04 Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp với Công ty HC mang tên Thi Thị L1, Văn Thị P3, Nguyễn Thị L3 và Nguyễn Thị L2 để vay tổng số tiền là 20.824.000đ.

Ngày 20/5/2019 và ngày 17/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai ra Quyết định trưng cầu giám định số 130/QĐ-PC01 và Quyết định trưng cầu giám định số 147/QĐ-PC01 trưng cầu chữ ký, chữ viết trên các hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số: 3804475655 tên Nguyễn Thị L2, 3804503328 tên Nguyễn Thị L3 và 3803665132 tên Thi Thị L1

Tại các Bản Kết luận giám định số 381/KLGĐ ngày 30/5/2019 và số 440/KLGĐ ngày 28/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận: chữ ký, chữ viết trên các hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số: 3804475655, 3804503328, 3803665132 và chữ viết của Lê Thị Thảo N trên tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người viết ra.

Ngày 27/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kon Tum ra Quyết định trưng cầu giám định số 13/QĐ-CSĐT-PC01 trưng cầu chữ viết, chữ ký trên hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3804338175 mang tên Văn Thị P3

Tại Bản Kết luận giám định số 59/GĐTP-2019 ngày 08/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum kết luận: Chữ ký, chữ viết trên hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3804338175 và chữ viết của bà Lê Thị Thảo N trên tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người viết ra.

Tiến hành cho các nhân viên đã trực tiếp thu thập thông tin cá nhân, hình ảnh khi Lê Thị Thảo N ký các Hợp đồng tín dụng tiêu dùng với Công ty HC nhận dạng qua ảnh đối với Lê Thị Thảo N. Kết quả nhận dạng, các nhân viên này đều xác định Lê Thị Thảo N chính là người trực tiếp Hợp đồng tín dụng tiêu dùng với Công ty HC.

Tiến hành đối chất giữa các nhân viên Công ty HC với Lê Thị Thảo N, các nhân viên Công ty HC xác nhận Lê Thị Thảo N chính là người đã ký các Hợp đồng tín dụng tiêu dùng với Công ty HC. Tuy nhiên, Lê Thị Thảo N không thừa nhận.

Đối với các giấy CMND và sổ hộ khẩu Lê Thị Thảo N sử dụng thực hiện hành vi phạm tội Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai đã tiến hành xác minh xác định:

- CMND và sổ hộ khẩu mang tên Thi Thị L1: số CMND 231488472 Công an tỉnh Gia Lai chưa cấp cho công dân, sổ hộ khẩu số 4674 không có trong tàng thư, lưu trữ của Công an thành phố P. Xác minh tại xã D3, thành phố P, tỉnh Gia Lai không có người mang tên Thi Thị L1 (sinh ngày 12/6/1980).

- CMND và sổ hộ khẩu mang tên Văn Thị P3: số CMND 230080703 Công an tỉnh Gia Lai chưa cấp cho công dân, sổ hộ khẩu số 1074683167 không tìm thấy trong tàng thư Hộ khẩu của Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai. Xác minh tại xã C1, huyện Đ2, tỉnh Gia Lai; tổ 6 và số 110 Đường P2, phường T5, thành phố P, tỉnh Gia Lai không có người mang tên Văn Thị P3 (sinh ngày 23/11/1980).

- CMND và sổ hộ khẩu mang tên Nguyễn Thị L2: số CMND 231927043 Công an tỉnh Gia Lai chưa cấp cho công dân, sổ hộ khẩu số 210189181 đã cấp cho hộ của ông Trần Thiện Thoại (trú tại tổ 9, phường A, thị xã A2, tỉnh Gia Lai), không phải cấp cho ông Nguyễn Văn H1. Xác minh tại xã T6, thành phố P, tỉnh Gia Lai và số nhà 174, tổ 9, phường A, thị xã A2, tỉnh Gia Lai không có người mang tên Nguyễn Thị L2 (sinh ngày 01/6/1979).

- CMND mang tên Nguyễn Thị L3: số CMND 230017772 Công an tỉnh Gia Lai đã cấp cho Nguyễn Thị H2 (HKTT: 18/12 Đường T4, thành phố P, tỉnh Gia Lai), không phải cấp cho Nguyễn Thị L3. Hiện nay, Nguyễn Thị H2 không có mặt tại địa phương nơi cư trú, không biết đang ở đâu nên không xác định được chị Hòa có bị mất giấy CMND hay không, sổ hộ khẩu số 46039 (số mới là 210114364) đã cấp cho hộ của ông Nguyễn Tiến T2 - chồng của bị can Lê Thị Thảo N (HKTT tại thôn 3, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai), không phải cấp cho bà Nguyễn Thị L3. Xác minh tại hai địa chỉ: Xã I1, huyện I2, tỉnh Gia Lai và tổ 14, phường T6 (nay là tổ 7 phường P4), thành phố P, tỉnh Gia Lai, không có người mang tên Nguyễn Thị L3 (sinh ngày 20/01/1978). Tức là sổ hộ khẩu số 46039 (số mới là 210114364) mang tên của chồng Lê Thị Thảo N là Nguyễn Tiến T2 chủ hộ đã bị thay thành tên Nguyễn Thị L3 là chủ hộ và đổi địa chỉ).

b. Về trách nhiệm dân sự:

Ngày 02/5/2019 Hợp đồng số 3804475655 tên Nguyễn Thị L2 đã trả và thanh toán toàn bộ số nợ 5.492.000 đồng cho công ty HC (Phần mềm quản lý dữ liệu của công ty không thể hiện được ai là người trả tiền, trả tại đâu, địa chỉ cụ thể như thế nào). Vì vậy Công ty HC Việt Nam yêu cầu Lê Thị Thảo N bồi thường tổng số tiền 15.332.000đ (mười lăm triệu, ba trăm ba mươi hai ngàn đồng). Đến nay Lê Thị Thảo N chưa bồi thường cho bị hại. Quá trình điều tra, Lê Thị Thảo N không thừa nhận hành vi phạm tội.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2020/HS-ST ngày 07/5/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Thảo N phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 38; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo 09 (Chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 341; Điều 38; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/5/2020 Lê Thị Thảo N có đơn kháng cáo với nội dung:

Bà N cho ràng bà cũng là nạn nhân, vì vào năm 2016 bà có nộp sổ hộ khẩu, CMND và làm thủ tục vay tiền tại Công ty HC có cả chữ ký, chữ viết để vay trả góp mua điện thoại, đến năm 2017 bà đã trả xong dứt điểm. Sau 02 năm bất ngờ bà bị Cơ quan CSĐT tỉnh Gia Lai gọi đến làm việc, vì Công ty HC có Đơn tố cáo bà lừa đảo vay tiền mua 04 điện thoại tại 04 cửa hàng Điện máy xanh, Thế giới di động, FPT số tiền là: 20.824.000 đồng, hết thời hạn trả nợ nhưng không trả. Tại Cơ quan CSĐT cho đến ngày ra Tòa bà đều khẳng định là không có nợ tiền của Công ty này và cũng không làm 04 hợp đồng nói trên. Tất cả các giấy tờ về Khởi tố, Truy tố, Kết luận Giám định, Kết luận điều tra, Cáo trạng bà đều bảo lưu ý kiến của mình là đã bị tố cáo oan.

Vụ án này liên quan đến 04 Hợp đồng tín dụng nói trên, có đến 08 người gồm 04 là nhân viên của Công ty tài chính Home Crerdit và 04 nhân viên của các cửa hàng Điện máy xanh, FPT, và Thế giới di động (nhân viên giao hàng), đó là: 1/ Huỳnh Quang Đ, 2/ Nguyễn Thị Thùy Ch, 3/ Mai Thị Thùy N, 4/ Nguyễn Thị N, 5/ Trần Thị Thu H, 6/ Lưu Thị B, 7/ Lê Hữu Đ3, 8/ Nguyễn Xuân H3. Do những người này Công ty không tố cáo nên Tòa án cấp sơ thẩm đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng là không đúng.

Tại lời khai ngày 25/11/2019 Ông Trịnh Văn Q1 cho biết Hợp đồng Tín dụng trả góp số 613804475655 đứng tên người vay Nguyễn Thị L2 đã trả xong số tiền 5.383.000 đồng cho Công ty HC, mà trước đó ông Qua đã có đơn tố cáo, đồng thời ông Qua cho biết “phần mềm quản lý dữ liệu của Công ty không thể hiện được ai là người trả, trả tại đâu, địa chỉ cụ thể như thế nào. Vì vậy Công ty HC chỉ yêu cầu bà Lê Thị Thảo N bồi thường số tiền còn lại là: 15.332.000 đồng”. Nhưng cấp sơ thẩm không làm rõ ai là người trực tiếp trả tiền của Hợp đồng số 613804475655 tại cửa hàng thị xã A2 người đứng tên Nguyễn Thị L2. Trong lúc công an đang điều tra thì có người mang tiền đến trả toàn bộ số nợ 5.492.000 đồng nói trên, vậy ai là người trả? trả hết nợ của 01 hợp đồng với mục đích gì? Hợp đồng quy định trả trễ hạn phải bị phạt lãi chậm, nhưng lại không thu tiền lãi. Tòa án cấp sơ thẩm tỉnh Gia Lai cho rằng tình tiết này không có ý nghĩa chứng minh bị cáo không phạm tội vì tội phạm mà bị cáo đã hoàn thành khi chiếm đoạt tiền của bị hại, trong khi tình tiết này bị cáo cho rằng rất đáng được quan tâm cần phải trả hồ sơ để tìm ra tội phạm đích thực trong vụ án này, nên nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm về nội dung trên là mang tính chủ quan, phiến diện.

Bà N khẳng định không đến những nơi cửa hàng trên để giao dịch, thế nhưng Công ty này có 04 tấm ảnh của bà được chụp ở 04 cửa hàng khác nhau, vậy thì 04 tấm hình này ở đâu ra, cấp sơ thẩm chưa điều tra, làm rõ nguồn gốc 04 tấm hình này có phải của bà hay không, chưa xác minh, thực nghiệm bằng phương pháp khoa học để xác định rằng các hình ảnh này là người thật, cảnh thật. Trong khi Quy định về việc chụp hình khách hàng là trong hình cần thấy được hàng hóa, gian hàng, nhân viên bán hàng, hoặc hoạt động của cửa hàng sau lưng khách hàng. Nhưng các tấm hình nói trên không thấy hình ảnh một nhân viên và một khách hàng nào.

Quá trình thu thập hồ sơ, 02 biên bản giao hàng trả góp đề tên Nguyễn Thị L3, Văn Thị P3 (BL 279 - 300) các ô giành cho thu ngân ký, nhân viên giao hàng ký, người nhận hàng ký còn ghi rõ ngày tháng năm nhưng không có ai ký vào.

Từ đó, cho thấy toàn bộ nội dung mà Công ty tài chính tố cáo bà còn mang tính chủ quan, chưa kiểm tra chặt chẽ về quy trình cho vay tín dụng do mình đặt ra, không loại trừ tội phạm lừa đảo khách hàng, nhưng trong vụ án này còn rất nhiều tình tiết liên quan đến Nhân viên của Công ty mà cơ quan Điều tra chưa làm rõ, bởi lẽ họ không phải là đối tượng bị tố cáo, trong khi người bị tố cáo thì khăng khăng không nhận tội, kêu oan. Mặt khác vụ án này cho thấy tài sản thiệt hại không lớn, nhưng có dấu hiệu của tội phạm công nghệ cao, do đó phải có bộ phận chuyên môn điều tra về thế giới công nghệ và có sự tích cực hợp tác từ Công ty HC mới phá được vụ án này để nhiều người không bị vạ lây.

Bản án hình sự sơ thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai kết tội bà về tội: Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong vụ án này là chưa thật sự thuyết phục. Kính đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét vụ án này hết sức khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt kẻ gian, không làm oan người ngay.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Thị Thảo N vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo như trong đơn đã trình bày.

Luật sư Lê Đình Quốc cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai, là người bào chữa cho bị cáo Lê Thị Thảo N phát biểu tranh luận: Từ giai đoạn điều tra đến khi kết thúc vụ án, nhận Cáo trạng của VKSND tỉnh Gia Lai và tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phúc thẩm hôm nay bà N cho rằng bà không hề biết gì về 04 lần vay tín dụng tiêu dùng trả góp để mua hàng điện thoại như nội dung Công ty Tài chính HC Việt Nam tố cáo gởi đến Cơ quan CSĐT. Vụ án có nhiều vấn đề rất đáng quan tâm về việc Cơ quan Cảnh sát điều tra, VKSND tỉnh Gia Lai và Kon Tum đã có căn cứ buộc tội đối với bà Lê Thị Thảo N với tội danh nói trên mà chưa làm rõ, trong đó gồm có: Hợp đồng số 613804475655 đúng tên Nguyễn Thị L2 đã trả và thanh toán toàn bộ số nợ 5.492.000 đồng; 04 tấm ảnh của bà N được chụp tại 04 cửa hàng; việc Cơ quan CSĐT ra Quyết định trưng cầu Giám định chữ ký, chữ viết.

Ngày 02/5/2019 Hợp đồng số 613804475655 đứng tên Nguyễn Thị L2 đã trả và thanh toán toàn bộ số nợ 5.492.000 đồng, nhưng Công ty HC cho rằng: “Phần mềm quản lý dữ liệu của Công ty không thể hiện được ai là người trả, trả tại đâu, địa chỉ cụ thể như thế nào”. Vì vậy Công ty HC chỉ yêu cầu bà N bồi thường số tiền còn lại là: 15.332.000 đồng. Như vậy thủ phạm nào đã vô hiệu hóa phần mềm của Công ty Home, thủ phạm là ai? ở đâu? Tính chất hành vi của vụ án này có tính đặc thù, người mà đã làm được những điều này để giả tài liệu cơ quan, tổ chức là người có đủ trình độ về nhiều mặt, cụ thể như tiếng Anh, trình độ về kỹ thuật công nghệ thông tin, xử lý thiết bị phương tiện hiện đại thì mới có thể vô hiệu hóa các phần mềm khác như hồ sơ lưu trữ nội bộ, liên quan đến hồ sơ vay tiền của một Công ty tài chính nước ngoài. Trong khi bà N là nông dân trình độ lớp 6 thì không thể.

Quá trình lấy lời khai từ giai đoạn điều tra đến khi kết thúc vụ án, bà N cho rằng bà không hề biết gì về 04 lần vay tín dụng nói trên, vậy là đồng nghĩa với việc bà N không đến những nơi cửa hàng ở Kon Tum, cửa hàng AynPa, cửa hàng K2 ở Gia Lai bao giờ, thế mà Công ty này có 04 tấm ảnh của bà được chụp ở 04 cửa hàng khác nhau, vậy thì 04 tấm hình này ở đâu ra? Cơ quan điều tra đã điều tra làm rõ nguồn gốc 04 tấm hình này chưa, đồng thời đã xác minh, thực nghiệm bằng phương pháp nào để xác định rằng các hình ảnh này là người thật, cảnh thật mà người phạm tội đã đến đây để ký Hợp đồng tín dụng vay rồi lừa đảo chiếm đoạt số tiền nói trên.

Trên cơ sở phân tích như trên, xét việc căn cứ kết tội bà Lê Thị Thảo N là không vững chắc, nên đề nghị HĐXX tuyên hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2020/HS-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để điều tra làm rõ tội phạm thật sự để tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng, về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thấy chưa có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Lê Thị Thảo N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 174 và điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 là chưa có căn cứ vững chắc như: Tất cả các hình ảnh bị cáo vay tại các quầy hàng do bị hại cung cấp chưa được trưng cầu giám định về hình ảnh; Hợp đồng vay của bị cáo N năm 2016 đã thanh toán xong nợ vào tháng 01 năm 2017, nhưng Hồ sơ kế toán của Công ty HC thể hiện đến tháng 4 năm 2019 bị cáo N vẫn còn nợ 11.000.000đ; Hồ sơ vay tên Nguyễn Thị L2 chưa làm rõ ai trả, trả tại đâu, thời gian nào và tại sao không tính lãi quá hạn. Từ trước đến nay, bị cáo đều kêu oan, nên đề nghị HĐXX tạm hoãn phiên tòa để thu thập thêm các chứng cứ như trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đây là phiên tòa được triệu tập lần thứ ba, tại phiên tòa hôm nay tuy vắng mặt 06 người làm chứng, nhưng những người có mặt tại phiên tòa và Kiểm sát viên đề nghị tiếp tục xét xử vụ án, nên HĐXX tiếp tục tiến hành phiên tòa.

[2] Về nội dung: Công ty tài chính TNHH MTV HC Việt Nam (Công ty HC) hoạt động trong lĩnh vực tài chính có 100% vốn nước ngoài. Khi khách hàng đến các cửa hàng bán xe máy, điện thoại di động và hàng điện tử gia dụng để mua sản phẩm nhưng không đủ tiền thì Công ty HC hỗ trợ khách hàng bằng cách ký hợp đồng tín dụng với khách hàng để cho vay tiền. Theo quy định của Công ty HC, để được ký Hợp đồng tín dụng vay tiền thì khách hàng phải có giấy chứng minh nhân dân (CMND) và giấy phép lái xe hoặc sổ hộ khẩu bản chính, khách hàng phải có mặt tại thời điểm thực hiện hợp đồng vay để Công ty HC chụp hình khách hàng và các giấy tờ trên lưu vào hồ sơ. Tài liệu tại hồ sơ thể hiện, từ ngày 30/8/2018 đến ngày 27/10/2018, Lê Thị Thảo N sử dụng các giấy CMND và sổ hộ khẩu mang tên người khác để ký 04 Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp với Công ty HC tại địa bàn tỉnh Gia Lai và Kon Tum vay tổng số tiền 20.824.000đ để mua trả góp 04 điện thoại nhưng không hoàn trả đúng thời hạn. Với nội dung trên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Lê Thị Thảo N 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 30 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo cho rằng bị cáo không có hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm kết tội. HĐXX xét thấy, căn cứ vào các chứng cứ thu thập được tại hồ sơ như kết quả giám định chữ ký, chữ viết của bị cáo tại các thủ tục vay tiền; hình ảnh của bị cáo được chụp lưu lại tại các địa điểm lập thủ tục vay tiền; lời khai của các nhân chứng Huỳnh Quang Đ, Nguyễn Thị Thùy Ch, Mai Thị Thùy N, Nguyễn Thị N, Trần Thị Thu H, Lưu Thị B, Lê Hữu Đ3, Nguyễn Xuân H3, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo phạm các tội như đã nêu trên là chưa có căn cứ vững chắc, bởi lẽ:

[3.1] Toàn bộ hình ảnh trong tất cả 05 lần bị cáo đến các cửa hàng làm thủ tục vay tiền (01 lần bị cáo nhận có vay, 04 lần bị cáo không nhận có vay) được công ty HC cung cấp để làm chứng cứ kết tội bị cáo N chưa được cơ quan điều tra trưng cầu giám định hình ảnh theo quy định của pháp luật để xem xét 04 hình ảnh bị cáo N không thừa nhận của mình là hình ảnh thật hay bị cắt ghép.

[3.2] Các kết luận giám định chữ ký, chữ viết của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai và Kon Tum cho kết quả là trong 05 hồ sơ vay tuy của 05 người khác nhau nhưng có chữ ký, chữ viết do cùng một người viết ra là bị cáo Lê Thị Thảo N. Tuy nhiên bị cáo không thừa nhận 04 hồ sơ vay tiền mang tên các bà Thi Thị L1, Văn Thị P3, Nguyễn Thị L2 và Nguyễn Thị L3 là do bị cáo viết và ký tên. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo tiếp tục không thừa nhận kết quả giám định và yêu cầu giám định lại. Qua xem xét 05 hồ sơ vay của những người có tên N, L1, P3, L2 và L3, HĐXX thấy rằng: Các chữ viết, chữ ký bản gốc tên Lê Thị Thảo N năm 2016 (BL 236) và năm 2020 (BL 467) so với các chữ viết, chữ ký bản gốc năm 2018 các tên Thi Thị L1 (BL 58), Văn Thị P3 (BL 254), Nguyễn Thị L2 (BL 180) và Nguyễn Thị L3 (BL 213) có nhiều nét chữ không giống nhau (kèm theo bảng chữ viết, chữ ký các bút lục trên). Để được khách quan và có căn cứ vững chắc cần trưng cầu cơ quan giám định khác ngoài hai cơ quan khởi tố bị cáo để giám định lại các chữ viết, chữ ký tại các bút lục nêu trên.

[3.3] Quá trình xác minh 04 bộ hồ sơ vay được cho là bị cáo N sử dụng làm tài liệu giả, trong đó có Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị L3, số CMND 230017772 Công an tỉnh Gia Lai đã cấp cho Nguyễn Thị H2 (HKTT: 18/12 Đường T4, thành phố P, tỉnh Gia Lai), không phải cấp cho Nguyễn Thị L3. Hiện nay, Nguyễn Thị H2 không có mặt tại địa phương nơi cư trú, không biết đang ở đâu nên không xác định được bà Hòa có bị mất giấy CMND hay không. Vấn đề này chưa được làm rõ để xem xét bà Hòa bị mất CMND khi nào, tại đâu, có báo với cơ quan công an nơi bị mất hay không?; trường hợp bà Hòa không có mặt tại nơi cư trú thì cần áp dụng các biện pháp tìm kiếm.

[3.4] Hợp đồng vay số 3804475655 ngày 02/5/2019 mang tên Nguyễn Thị L2 đã được ai đó thanh toán toàn bộ số nợ 5.492.000 đồng cho Công ty HC. Nhưng chưa trích xuất camera để làm rõ ai là người mang số tiền trên đến nộp, nộp tại đâu, thời gian nào và tại sao công ty HC không phạt trả chậm theo quy định?

[3.5] Hợp đồng vay ngày 22/9/2016 mang tên Lê Thị Thảo N đã được bị cáo tất toán vào tháng 01 năm 2017, nhưng trong hệ thống kế toán của Công ty HC vẫn còn thể hiện số nợ đến tháng 4 năm 2019 là 11.000.000đ và tên bị cáo N vay năm 2016 lại cùng chung trang giấy với 04 người vay năm 2018. Những vấn đề trên cần được làm rõ để tìm ra nguyên nhân của những việc không bình thường nêu trên.

[4] Từ những nhận định trên đây, HĐXX xét thấy kháng cáo của bị cáo và tranh luận của Luật sư là căn cứ nên được chấp nhận, cần hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại theo đúng quy định pháp luật; HĐXX không thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên là hoãn phiên tòa để thu thập chứng cứ; bởi những thiếu sót nêu trên không thể bổ sung được tại cấp phúc thẩm.

[5] Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1/ Chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Lê Thị Thảo N; hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2020/HS-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai; chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

2/ Bị cáo Lê Thị Thảo N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (30/9/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 312/2020/HSPT ngày 30/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:312/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về