Bản án 31/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2020/HSST ngày 11 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2020/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lỳ A P - Sinh năm 1976; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản L, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lỳ Sênh S (đã chết) và bà Giàng Thị C (đã chết); Có vợ là Giàng Thị A và có 04 con chung (con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2014); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 03/10/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người phiên dịch: Ông Sộng Nỏ B. Trú tại: Tổ dân phố 5, thị trấn S, huyện S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 06 giờ 30 phút, ngày 03/10/2020 tổ công tác Công an xã N, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản L, xã N phát hiện Lỳ A P có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ ở túi áo ngực đang mặc của P 01 gói nilon bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng (P khai nhận là hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lỳ A P và thu giữ vật chứng là 01 viên nén màu hồng.

Cùng ngày tại Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định kết quả: 01viên nén màu hồng nghi là hồng phiến thu giữ của P có khối lượng 0,113 gam, trích hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu P.

Kết luận giám định số 1544 ngày 07/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu P là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,113 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,113 gam, loại Methamphatamine”.

Quá trình điều tra bị cáo Lỳ A P khai nhận: Khoảng 05 giờ ngày 03/10/2020 P mang theo số tiền 30.000đ đi bộ từ nhà đến bản V, xã G, huyện M, tỉnh Sơn La để mua ma túy về sử dụng. Đến nơi P gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở ven đường, P hỏi mua được 01 viên hồng phiến với giá 30.000đ, mua bán xong P cất hồng phiến vào túi áo ngực đang mặc rồi đi về nhà, đến khoảng 06h30’ cùng ngày khi P lấy viên hồng phiến ra để dử dụng thì bị tổ công tác Công an xã N - S làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKSSM ngày 09 tháng 12 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lỳ A P về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Lỳ A P từ 16 – 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng 01 mảnh nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo và tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung của bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì, khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 06 giờ 35 phút, ngày 03/10/2020, đối với Lỳ A P có hành vi cất giấu 01 viên nén màu hồng, P khai nhận là viên hồng phiến.

- Vật chứng bị thu giữ là 01 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1544 ngày 07/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “…Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,113 gam; Loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã sử dụng ma tuý từ năm 2009 nên ngày 03/10/2020 có lên bản Phiêng Phụ, xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn mua được một 01 viên hồng phiến về mục đích để sử dụng, sau khi mua được đem về nhà chuẩn bị sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 03/10/2020 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,113 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình lượng hình HĐXX nhận thấy khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo không lớn so với khởi điểm của khung hình phạt nên đối với mức án do đại diện VKSND huyện Sông Mã đề xuất áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, khi quyết định mức hình phạt HĐXX cân nhắc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và khối lượng ma túy bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất và tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo không có tài sản gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành, cùng 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên bị cáo được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Lỳ A P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Lỳ A P 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án (05/01/2021).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 mảnh nilon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong theo đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 027608.

+ 0,091 gam Methamphetamine cùng 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng gửi giám định đã bóc mở được đựng trong 01 phong bì thư đã niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 051345.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/12/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về