Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 05/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 05/8/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2019/QĐST-DS ngày 12/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị Th, sinh năm 1985

ĐKTT và chỗ ở: Đội T, xã Thanh X, huyện Điện B, tỉnh Điện Biên, có mặt

2. Bị đơn: Anh Lường Văn N, sinh năm 1989

ĐKTT: Đội T, xã Thanh X, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Chỗ ở hiện nay: Đội T, xã Thanh X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Anh N vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/02/2019, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lò Thị Thu trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lường Văn N lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 04/01/2011 tại Ủy ban nhân dân xã Thanh X, huyện Điện Biên. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được khoảng 8 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh N đua đòi ăn chơi theo bạn bè không tu chí làm ăn, sử dụng chất ma túy và đánh đập vợ con. Chị đã khuyên bảo nhiều lần song anh N không bỏ được, anh N sống không có trách nhiệm của người chồng, người cha, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ từ sau tết năm 2019. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh N.

Về quan hệ con chung: Anh chị có một con chung là cháu Lường Minh T sinh ngày 15/01/2011, cháu đang ở với chị. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Tân và không yêu cầu anh N cấp dưỡng. Về điều kiện nuôi con: Chị làm ruộng và làm thuê thu nhập khoảng 6.000.000/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về, đất nông nghiệp: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án số 81/TB-TLVA ngày 01/02/2019 về nơi cư trú của anh Nọi song không có người nhận. Theo biên bản xác minh nơi cư trú ngày 01/3/2019, thì anh N có đăng ký thường trú tại Đội T, xã Thanh X nhưng hiện nay sinh sống tại đội X, xã Thanh X huyện Điện Biên nhưng anh N thường xuyên vắng mặt tại địa bàn, địa phương không nắm được thời gian đi và về của anh nên không thể tống đạt trực tiếp cho anh N được.

Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai Thông báo thụ lý vụ án ngày 01/3/2019 tại nơi cư trú, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên và tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Thanh X. Hết thời hạn niêm yết công khai theo quy định tại điều 179 Bộ luật Tố tụng Dân sự anh N vẫn không có mặt gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị Lò Thị Th. Ngày 03/5/2019, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự và đã tiến hành niêm yết công khai thông báo này tại nơi cư trú của anh N, tại Ủy ban nhân dân xã Thanh X và tại trụ sở Tòa án song anh N vẫn không có mặt tại phiên họp và hòa giải. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và đã lập biên bản về việc không hòa giải được theo luật định, chị Th cũng đề nghị Tòa án không mở phiên hòa giải lần thứ 2 nữa mà tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Ngày 12/7/2019 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 18/6/2019 và niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, anh N vắng mặt lần thứ nhất không có lý do. Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định.

Tại phiên tòa ngày 05/8/2019, chị Th vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, anh Nọi vắng mặt lần 2 không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Lò Thị Th được ly hôn với anh Lường Văn N theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Về con chung: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận việc giao cháu Lường Minh T cho chị Lò Thị Th chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, chấp nhận việc chị Th không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí DSST.

Về kiến nghị: Không

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

{2}. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị Th và anh Lường Văn N kết hôn ngày 04/01/2011, vì vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để giải quyết

{3} Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 12/7/2019 Tòa án nhân dân huyện Điện B đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.

{4} Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh N lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 04/01/2011 tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Xương, huyện Điện Biên. Hôn nhân là tự nguyện, không ai bị ép buộc hoặc lừa dối và có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống do anh N không tu chí làm ăn, dẫn đến nghiện ma túy đánh đập vợ con mặc dù đã được chị Th khuyên bảo song anh N không bỏ được, chị Th đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống ly thân từ sau tết năm 2019, từ đó không ai quan tâm đến ai, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh nơi cư trú, niêm yết công khai các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp và hòa giải cho anh N song anh N vẫn không có mặt tại Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh N đã không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị Th, vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, đã thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật, vi phạm các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh N đã tự từ bỏ các các quyền của mình. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 02/5/2019 (BL 43) thể hiện về nguyên nhân mâu thuẫn do anh N không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình, gia đình sống không hòa thuận hạnh phúc, chị Th đã về nhà mẹ đẻ không sinh sống cùng anh N nữa.

HĐXX xét thấy: Mặc dù anh N không có mặt tại Tòa án để thể hiện ý kiến quan điểm của mình về quan hệ hôn nhân, song qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình Tòa án thu thập chứng cứ xác minh tình trạng hôn nhân, đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn do anh N ăn chơi đua đòi không tu chí làm ăn chăm lo gia đình, không làm đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của người chồng dẫn đến hôn nhân anh chị không có hạnh phúc, chị Th đã sống ly thân từ đó đến nay. Mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Th xin ly hôn với anh N cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

{5} Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lường Minh T sinh ngày 15/01/2011, quan điểm chị Th xin được nuôi cháu đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh N cấp dưỡng. Về điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng chị làm ruộng ngoài ra đi làm thuê có đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng cháu thể hiện tại biên bản ngày 02/5/2019 có xác nhận của chính quyền địa phương. Quá trình giải quyết vụ án, cháu T đã có bản tự khai, cháu hiện đang ở với mẹ, xin được ở với mẹ.

HĐXX xét thấy: Qua quá trình giải quyết vụ án, anh N đã không lên Tòa án thể hiện quan điểm của mình về con chung. Qua xác minh cho thấy anh N là người không không tu chí làm ăn, quan tâm chăm lo đến gia đình, HĐXX căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của cháu T, nguyện vọng và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng của chị Th, căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Quyết định chấp nhận ý kiến của chị Th giao cháu Lường Minh T sinh ngày 15/01/2011 cho chị Th chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, chấp nhận sự tự nguyện không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

{6}Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí DSST.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Khoản 1 Điều 56, khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Nguyên đơn chị Lò Thị Th được ly hôn với bị đơn anh Lường Văn N.

2. Về con chung: Giao cháu Lường Minh T sinh ngày 15/01/2011 cho chị Lò Thị Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện chị Th không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về, đất nông nghiệp: Không có.

4. Về án phí DSST: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ Luật TTDS và Điểm a khoản 5 Điều 27 nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, qu ản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí DSST, chị đã nộp đủ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0002935 ngày 21/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện B, tỉnh Điện Biên

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị Th được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 05/8/2019; Anh Lường Văn N được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 05/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về