Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Anh T

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HOÀ - TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ NGUYỄN THỊ L VÀ ANH TRỊNH ANH T

Ngày 03 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 179/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 05 năm 2019 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2019/QĐXX-ST ngày 03 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-DSST, ngày 13/6/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1994, có mặt

2. Bị đơn: Anh Trịnh Anh T, sinh năm 1994, vắng mặt

Đều HKTT: Thôn D, xã H, Huyện U, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai - Nguyên đơn Chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị kết hôn với anh Trịnh Anh T do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện Ư, thành phố Hà Nội vào tháng 8/2018. Ngay sau khi cưới được vài ngày đầu thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau và do anh Tuấn cục cằn, nóng tính thường xuyên uống rượu bia rồi kiếm cớ hành hung với chị. Anh T đã nhiều lần đánh đuổi chị ra khỏi nhà, đã có lần anh kề dao vào cổ chị, chị hoảng sợ nên chỉ sống ở nhà anh T được 2 tháng đã bỏ về nhà đẻ. Vợ chồng sống ly thân nhiều tháng nay, không ai hỏi han gì đến ai. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị sống với anh T không có hạnh phúc, chị xin được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Bị đơn anh Trịnh Văn Tuấn trình bày: Anh tự nguyện kết hôn cùng chị Nguyễn Thị L vào tháng 8/2018 có đăng ký tại ủy ban nhân dân xã H. Sau khi kết hôn vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, nhất là vào tháng 12 năm 2018. Nguyên nhân do tính tình không hợp, cộng thêm bị tác động, chi phối của gia đình nhà chị L. Vợ chồng đã sống ly thân được 6 tháng, anh mong tòa hòa giải cho hai vợ chồng.

Về con chung: Chị L, anh T đều xác nhận chưa có

Về tài sản chung: Chị L, anh T đều xác nhận không có gì.

Tại phiên tòa :

- Anh Trịnh Anh T vắng mặt không lý do;

- Chị Nguyễn Thị L vẫn tha thiết xin được ly hôn;

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa tham gia phiên tòa kết luận:

+ Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, tiến hành tố tụng là đúng pháp luật. Người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Vợ chồng chị Nguyễn Thị Luyến và anh Trịnh Anh Tuấn trong cuộc sống vợ chồng không hợp nhau, không có hạnh phúc thời gia chung sống cùng nhau rất ngắn. Vợ chồng không còn tình cảm với nhau, hai người sống ly thân nhiều tháng nay. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử chị Nguyễn Thị Luyến được ly hôn anh Trịnh Anh Tuấn; Con chung,tài sản chung không có nên không giải quyết; Chị Luyến phải nộp án phí theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L đã nộp đơn cùng các tài liệu, chứng cứ theo quy định. Tranh chấp của vụ án là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình – Theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 36, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội. Ngày 13/6/2019 Tòa mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh Tuấn vắng mặt không lý do nên hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và giao các văn bản tố tụng theo qui định, tại phiên tòa hôm nay anh Tuấn vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Anh T kết hôn do tự nguyện, có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện U, Thành phố Hà Nội vào tháng 8 năm 2018 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống ngay sau khi cưới vợ chồng đã mâu thuẫn, do nhiều nguyên nhân khác nhau vợ chồng sống với nhau được 02 tháng thì chị Luyến phải về nhà ngoại và sinh sống ở nơi khác cho đến nay, vợ chồng không ai còn quan tâm đến ai nên chị L xin ly hôn. Anh T xác nhận vợ chồng đã sống ly thân nhiều tháng nay, không ai quan tâm đến ai nhưng anh vẫn không muốn ly hôn.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: Cuộc sống chung của chị L, anh T không có hạnh phúc, vợ chồng đánh cãi chửi nhau, anh chị sống ly thân, không có tình cảm với nhau thời gian chung sống rất ngắn. Để đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ, đề nghị tòa giải quyết theo qui định của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy: Ngay sau khi kết hôn được mấy ngày vợ chồng anh T, chị L đã xẩy ra mâu thuẫn, đánh chửi nhau và đã có thời gian sống ly thân, cả hai vợ chồng đều xác nhận không có hạnh phúc nên xác định : Tình trạng hôn nhân, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Anh T đã đến mức trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, đơn xin ly hôn của chị L phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên hội đồng xét xử chấp nhận, xử cho chị L được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung, về tài sản, công nợ chung: Đều không có gì.

[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phi và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa, kiểm sát viên tham gia phiên Tòa đã nhận xét về thủ tục tố tụng Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Quan điểm giải quyết vụ án đã phân tích, đánh giá mâu thuẫn của vợ chồng chị L, anh T và đề nghị Tòa xét xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Trịnh Anh T.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào : Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 36, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 271; 273; 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuyên xử: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Trịnh Anh T.

2.Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009131 ngày 15/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ứng Hòa, chị Nguyễn Thị L đã nộp đủ tiền án phí.

3.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án đối với chị L, kể từ ngày nhận được bản án được giao hợp lệ hoặc được niêm yết tại nơi thường trú đối với anh T./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Anh T

Số hiệu:30/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về