Bản án 30/2018/HS-ST ngày 25/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 30/2018/HS-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2018/TLST-HS ngày 30/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2018/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Lưu Bá T, sinh năm 1993 tại huyện P, tỉnh Bến Tre. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú số: 332/2 Nguyễn Thị Định, khu phố 2, thị trấn Thạnh Phú, huyện P, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Lưu Văn K, sinh năm 1957 (sống) và bà Võ Thị X, sinh năm 1956 (sống); bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: ngày 04 tháng 4 năm 2014, bị Công an huyện P xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (bị cáo đã nộp phạt xong).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại Tòa.

- Người làm chứng:

Trần Văn P, sinh năm 1994; Nơi cư trú: 71/1 ấp TQ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

Nguyễn Minh K, sinh năm 1994; Nơi cư trú: 127/3 ấp TQ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

Võ Trường T, sinh năm 1988; Nơi cư trú: 100/1 ấp QA, xã Bình Thạnh, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

Trương Hoài P, sinh năm 1976; Nơi cư trú: C4/15Y đường B, ấp 3, xã TK, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

Lưu Văn K, sinh năm 1957; Nơi cư trú: 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

Lưu Thị Kim Lành, sinh năm 1979, Nơi cư trú: 72/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do thường xuyên sử dụng ma túy nên vào ngày 01 tháng 01 năm 2018, Lưu Bá T gọi điện thoại cho một người nam giới tên M (không biết họ, địa chỉ cụ thể) ở thành phố Hồ Chí Minh để mua 3.000.000đ (ba triệu đồng) ma túy về sử dụng.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 02 tháng 01 năm 2018, T đến Bến xe khách P nhận ma túy do M gửi về bằng cách để vào túi đựng hồ sơ được dán kín và gửi cho xe ô tô M, biển số 51B-02583 chạy tuyến Bình Dương – P. Toàn bộ số ma túy được M gửi có giá 5.300.000đ (năm triệu ba trăm ngàn đồng), nhưng trước đó T chỉ chuyển khoản 3.000.000đ (ba triệu đồng), số tiền còn lại M cho T nợ. Sau khi nhận và kiểm tra gồm 05 bịch ma túy, T đem về cất giấu vào một hộp giấy để trong ngăn tủ tại nhà số 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, T lấy một bịch ma túy từ số ma túy vừa mua được vào phòng ngủ để sử dụng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Trần Văn P (sinh năm 1994, đăng ký thường trú tại số nhà 71/1 ấp TQ, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre) điện thoại rủ T đến nhà trọ Mai Nhân, thuộc ấp 7, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre để sử dụng ma túy thì T đồng ý. T lấy một ít ma túy (không rõ khối lượng) từ bịch ma túy vừa sử dụng còn lại cho vào bịch nilon và hàn kín rồi đến nhà trọ Mai Nhân sử dụng chung với P. Sau khi sử dụng ma túy xong, P đưa cho T 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) là tiền để hùn sử dụng ma túy. Sau đó, T trở về nhà tại số 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre. Khoảng một lúc sau, T tiếp tục nhận được điện thoại của một người nam giới tên Thoại (không xác định được lý lịch) hẹn gặp T tại quán Ngọc Vy, ở ấp 7, thị trấn T, sau đó sẽ thống nhất địa điểm để cùng sử dụng ma túy thì T đồng ý. T lấy một ít ma túy (không rõ khối lượng) cho vào một bịch nilon, hàn kín bốn phía và dán giấy bạc bên ngoài rồi bỏ vào túi áo bên trái. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi T vừa đi ra khỏi nhà thì bị tổ công tác của Công an thị trấn Thạnh Phú phối hợp với Công an huyện Thạnh Phú phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy trên người.

Vật chứng được thu giữ trên người của Lưu Bá T gồm:

- 01 (một) bịch nilon được hàn kín bốn phía, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy, được dán giấy bạc xung quanh (được niêm phong trong phong bì ký hiệu là A). Được thu giữ bên trong túi áo bên trái của Lưu Bá T.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu HOTWAV, màu xanh, số imei1: 355228080052010/01, số imei2: 355229080052018/01 và số tiền 2.250.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Thu trong túi quần trước bên trái của Lưu Bá T;

- 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG J7 PRIME, màu xanh đen, số imei1: 352774085443798, số imei2: 352774085443806. Thu trong túi quần trước bên phải của Lưu Bá T;

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lưu Bá T tại số nhà 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre, cơ quan Công an phát hiện, tạm giữ:

- 01 (một) bịch nilon được hàn kín bốn phía, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy (được niêm phong trong phong bì ký hiệu là B). Được thu tại đầu giường trong phòng thứ hai tại nhà số 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre;

- 04 (bốn) bịch nilon, trong đó 02 (hai) bịch nilon được hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh kéo khép lại, có sọc màu đỏ; 02 (hai) bịch nilon được hàn kín bốn phía. Tất cả 04 (bốn) bịch nilon bên trong đều có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy (được niêm phong trong phong bì ký hiệu là C). Được thu trong hộp đựng chuột máy vi tính hiệu Genius, để ở ngăn tủ đứng bằng gỗ, đối diện phòng ngủ thứ ba tại nhà số 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre;

- 01 (một) chai nhựa hình bầu dục cao 10cm, rộng 06cm, có nắp đậy bằng nhựa màu trắng được gắn một ống thủy tinh hình mỏ vịt dài 15cm và một đoạn ống nhựa màu đen. Được thu trên giường trong phòng thứ hai tại nhà số 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre;

- 02 (hai) cái kéo bằng kim loại màu trắng, nhãn hiệu STAINLESS. Được thu trên giường trong phòng thứ hai tại nhà số 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Tại Kết luận giám định số 392/C54B ngày 03 tháng 01 năm 2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói ký hiệu A: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon dược niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1389 gam, loại Methamphetamine;

- Gói ký hiệu B: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,2111 gam, loại Methamphetamine;

- Gói ký hiệu C: tinh thể màu trắng trong 04 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 11,7930 gam, loại Methamphetamine.

- Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu sau giám định hoàn trả có khối lượng lần lượt là: Gói B có khối lượng 1,0760 gam và gói C có khối lượng là 11,5063 gam, được niêm phong. Riêng gói A đã sử dụng hết cho công tác giám định.

Tại Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 15 tháng 7 năm 2018, theo đề nghị của Lưu Bá T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P đã trao trả cho Lưu Thị Kim L (cô ruột của bị cáo) số tiền 2.250.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) đã tạm giữ nêu trên theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 05 ngày 15 tháng 7 năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKS, ngày 29-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú đã truy tố bị cáo Lưu Bá T về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Lưu Bá T từ 05 (năm) năm tù đến 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 02-01-2018.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: do bị cáo T là người không có nghề nghiệp, không có tài sản nên thấy rằng nếu áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo cũng không có khả năng thi hành nên đề nghị không áp dụng.

Về áp dụng biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị xử lý vật chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú theo Quyết định chuyển vật chứng số 09/QĐ-VKS ngày 29/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú như sau:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu HOTWAV, màu xanh, số imei1: 355228080052010/01, số imei2: 355229080052018/01 do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Trao trả cho Lưu Bá T 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG J7 PRIME, màu xanh đen, số imei1: 352774085443798, số imei2: 352774085443806 do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tịch thu tiêu hủy:

- Gói B có khối lượng 1,0760 gam, loại Methamphetamine;

- Gói C có khối lượng là 11,5063 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu vật B, C còn lại sau giám định, được niêm phong khối lượng và kèm theo Kết luận số 392/C54B ngày 03/01/2018 của Phân viện KHHS tại thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 (một) chai nhựa hình bầu dục cao 10cm, rộng 06cm, có nắp đậy bằng nhựa màu trắng được gắn một ống thủy tinh hình mỏ vịt dài 15cm và một đoạn ống nhựa màu đen;

- 02 (hai) cái kéo bằng kim loại màu trắng, nhãn hiệu STAINLESS.

Bị cáo Lưu Bá T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện giống như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo; thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạnh Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Bá T thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo; lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 22 giờ ngày 02 tháng 01 năm 2018, tại khu phố 2, thị trấn Thạnh Phú, huyện P, tỉnh Bến Tre, Lưu Bá T có hành vi cất giấu trên người trái phép 0,1389 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an thị trấn Thạnh Phú phối hợp với Công an huyện P phát hiện, bắt quả tang. Tiến hành khám xét khẩn cấp chổ ở của Lưu Bá T tại số nhà 332/2 N, khu phố 2, thị trấn T, huyện P, tỉnh Bến Tre, cơ quan Công an phát hiện T đang cất giữ trái phép 13,0041 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân. Tổng số ma túy mà Lưu Bá T tàng trữ trái phép có khối lượng là 13,143 gam, loại Methamphetamine nên bản Cáo trạng số 23/CT-VKS, ngày 29-8- 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú truy tố bị cáo Lưu Bá T về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

… g) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;”.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo: hành vi của bị cáo mang tính chất rất nghiêm trọng, không những xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác còn xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây ra.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: căn cứ vào tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tù thật nghiêm khắc và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung cho cộng đồng.

[8] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời, bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về áp dụng các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý vật chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú theo Quyết định chuyển vật chứng số 09/QĐ-VKS ngày 29/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú như sau:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu HOTWAV, màu xanh, số imei1: 355228080052010/01, số imei2: 355229080052018/01 do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Trao trả cho bị cáo Lưu Bá T 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG J7 PRIME, màu xanh đen, số imei1: 352774085443798, số imei2: 352774085443806 do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tịch thu tiêu hủy:

- Gói B có khối lượng 1,0760 gam, loại Methamphetamine;

- Gói C có khối lượng là 11,5063 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu vật B, C còn lại sau giám định, được niêm phong khối lượng và kèm theo Kết luận số 392/C54B ngày 03/01/2018 của Phân viện KHHS tại thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 (một) chai nhựa hình bầu dục cao 10cm, rộng 06cm, có nắp đậy bằng nhựa màu trắng được gắn một ống thủy tinh hình mỏ vịt dài 15cm và một đoạn ống nhựa màu đen;

- 02 (hai) cái kéo bằng kim loại màu trắng, nhãn hiệu STAINLESS.

[10] Về nguồn gốc ma túy 13,143 gam, loại Methamphetamine bị thu giữ, Lưu Bá T khai nhận mua của một người nam giới tên Mỹ, ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không biết họ, địa chỉ ở đâu. Ngoài lời khai của T thì không có chứng cứ nào khác để chứng minh nên yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Đối với với việc Lưu Bá T có hành sử dụng trái phép chất ma túy cùng với Trần Văn P, sau đó T được P đưa cho 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để hùn sử dụng ma túy, nhưng giữa T và P không có thỏa thuận mua bán trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý. Do đó, yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú xem xét xử lý hành chính là phù hợp.

Đối với người tên Thoại (không xác định được lý lịch) có hành vi liên hệ với T để cùng sử dụng trái phép chất ma túy, yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Đối với Trương Hoài P là tài xế xe ô tô khách Minh Nhựt có hành vi nhận vận chuyển túi hồ sơ được dán kín, bên trong chứa ma túy từ thành phố Hồ Chí Minh về Bến xe Thạnh Phú và giao cho bị cáo Lưu Bá T, nhưng do khi giao nhận thì P hoàn toàn không biết được đó là ma túy nên không xem xét xử lý.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: bị cáo Lưu Bá T phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lưu Bá T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 02-01-2018.

2. Về áp dụng các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý vật chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú theo Quyết định chuyển vật chứng số 09/QĐ-VKS ngày 29/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú như sau:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu HOTWAV, màu xanh, số imei1: 355228080052010/01, số imei2: 355229080052018/01;

Trao trả cho Lưu Bá T 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG J7 PRIME, màu xanh đen, số imei1: 352774085443798, số imei2: 352774085443806.

Tịch thu tiêu hủy:

- Gói B có khối lượng 1,0760 gam, loại Methamphetamine;

- Gói C có khối lượng là 11,5063 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu vật B, C còn lại sau giám định, được niêm phong khối lượng và kèm theo Kết luận số 392/C54B ngày 03/01/2018 của Phân viện KHHS tại thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 (một) chai nhựa hình bầu dục cao 10cm, rộng 06cm, có nắp đậy bằng nhựa màu trắng được gắn một ống thủy tinh hình mỏ vịt dài 15cm và một đoạn ống nhựa màu đen;

- 02 (hai) cái kéo bằng kim loại màu trắng, nhãn hiệu STAINLESS.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án buộc bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Trong thời hạn mười lăm ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HS-ST ngày 25/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về