Bản án 30/2018/HS-ST ngày 17/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 30/2018/HS-ST NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Hoàng Văn P; tên gọi khác: Không, sinh ngày 25 tháng 01 năm 1995, tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H1 và bà Lộc Thị H2; chưa có vợ; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Tốt. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/01/2018. Có mặt. 

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị Hương L là trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Triệu Thị C, sinh năm 1965, trú tại: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Ông Lê Văn B, sinh năm 1956, trú tại: đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/01/2018, Tổ công tác Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ, tại khu vực đường mòn L, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra người thanh niên khai là Hoàng Văn P, đồng thời tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nilon màu xanh, bên trong có 05 gói giấy màu trắng in hình hoa văn, bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy. Tổ công tác đã đưa Hoàng Văn P cùng tang vật về trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 16 giờ 45 phút, ngày 18 tháng 01 năm 2018.

Đồ vật, tài sản tạm giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa 05 gói giấy màu trắng bề mặt có in hình hoa văn, trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng, nghi là chất ma túy, niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Hoàng Văn P”; 01 điện thoại di động nhãn hiệu LV Mobile đã qua sử dụng, bên trong có 01 sim Viettel; 01 xe mô tô Honda wave, biển kiểm soát 12P1-8075 đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra Hoàng Văn P khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 18/01/2018, một mình điều khiển xe mô tô đi từ nhà, khi đi mang theo 250.000 (hai trăm năm mươi nghìn) đồng đến cửa khẩu T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, mục đích mua ma túy về dử dụng cho bản thân. Khi đến T đi xe đến chân đồi L và để xe ở cạnh đường. Sau đó một mình đi bộ theo đường mòn đồi Keo sang biên giới Việt Nam - Trung Quốc, gặp một người đàn ông Trung Quốc khoảng 30 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ), Hoàng Văn P hỏi mua 250.000 (hai trăm năm mươi nghìn) đồng ma túy, đồng thời Hoàng Văn P đưa cho người đàn ông đó 250.000 (hai trăm năm mươi nghìn) đồng, người đàn ông đó nhận tiền và đưa cho Hoàng Văn P 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục chất bột màu trắng là Heroine, Hoàng Văn P nhận và lấy ra một ít để sử dụng. Sau đó Hoàng Văn P chia cục ma túy ra thành nhiều gói nhỏ, bằng giấy màu trắng bề mặt in hình hoa văn được 05 gói. Hoàng Văn P gói lại bằng mảnh nilon màu xanh, cất vào trong túi quần lót đang mặc trên người và đi về T. Khi đang đi về hướng để xe mô tô, thì bị Tổ công tác Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn yêu cầu kiểm tra và Hoàng Văn P đã tự giác giao nộp gói ma túy cho Tổ công tác.

Tại kết luận giám định số 85/KL-PC54 ngày 21/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận về đối tượng giám định: Chất bột màu trắng đựng trong 05 gói giấy gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,409 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 10/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Hoàng Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình, như cáo trạng đã nêu. Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù giam, không áp dụng hình phạt bổ sung, về vật chứng đề nghị tịch thu, tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 phong bì thư; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn do nhận thức pháp luật hạn chế. Sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị, bị cáo sinh sống cùng bố mẹ, không có tài sản mong Hội đồng xét xử miễn phần hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/01/2018, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,409 gam (đã trừ bì) nhằm mục đích để sử dụng, thì bị phát hiện bắt quả tang, có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi mà bị cáo đã thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội về nhiều mặt, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo bị nhân dân lên án mạnh mẽ và bị pháp luật nghiêm cấm.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Không có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử, sau khi cân nhắc xem xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhưng cũng cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, cho xã hội và phòng ngừa giáo dục chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo là người nghiện, không sở hữu tài sản gì, sống cùng bố mẹ, (thể hiện tại biên bản xác minh ngày 29/01/2018). Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với bà Triệu Thị C cho bị cáo mượn xe và ông Lê Văn B là người đứng tên đăng ký xe mô tô, nhưng bà Triệu Thị C, ông Lê Văn B không biết bị cáo mang xe đi mua ma túy về sử dụng, nên không liên quan.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo là người Trung Quốc, do phạm vi ngoài lãnh thổ, nên cơ quan điều tra không thể tiến hành xác minh làm rõ được.

[7] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo đề nghị về tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, vật chứng tịch thu tiêu hủy số ma túy, trả lại bị cáo 01 điện thoại di động. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ, nên được chấp nhận.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12P1-8075 Viện kiểm sát đã xử lý vật chứng trả cho chủ sử hữu (theo biên bản trả lại tài sản ngày 22/4/2018), nên không xem xét giải quyết nữa; đối với số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,385 gam Heroine, niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Hoàng Văn P”, là vật Nhà nước cấm lưu hành. Tịch thu, tiêu hủy; đối với 01 điện thoại nhãn hiệu LV Mobile đã qua sử dụng, số IMEL có bốn số cuối là 5379, bên trong lắp 01 sim Viettel, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Người bị kết án phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn P 18 (mười tám) tháng tù giam, thời hạn tính từ ngày 18 tháng 01 năm 2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 1, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,385 gam Heroine, niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Hoàng Văn P”.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại nhãn hiệu LV Mobile đã qua sử dụng, số IMEL có bốn số cuối là 5379, bên trong lắp 01 sim Viettel. (các vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, theo biên bảo giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 4 năm 2018).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Hoàng Văn P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HS-ST ngày 17/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về