Bản án 295/2018/HSPT ngày 17/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 295/2018/HSPT NGÀY 17/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 261/2018/TLPT-HS ngày 13/8/2018 đối với bị cáo Phạm Văn Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2018/HSST ngày 06/07/2018 của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Văn Đ; sinh ngày 23/02/1998, tại tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/3/2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 07/11/2017, Phạm Văn Đ đi bộ từ nhà mình đến nhà ông Nguyễn Xuân T (là anh rể của Đ) ở cùng thôn, khi đến nơi thấy cổng không khóa, bên trong không có người nên Đ mở chốt cổng đi vào thấy ở sân phía bên hông nhà có dựng 01 chiếc xe mô tô biển số 47N8-8001, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu xanh đen nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên rồi sử dụng thanh gỗ có sẵn ở sân bẩy mạnh làm song cửa sắt bung ra rồi chui vào bên trong nhà, đi đến phòng ngủ lục tìm bên trong tủ quần áo lấy chìa khóa và tài sản nhưng không thấy. Lúc này, Đ nhìn lên phía trên tủ thấy có 02 chiếc điện thoại di động và 01 chìa khóa xe máy, sau khi lấy được số tài sản trên Đ ra dắt xe đi khoảng 150 m rồi nổ máy xe điều khiển đi được 50m đến cầu gỗ thì dừng lại mở cốp xe ra kiểm tra thấy bên trong cốp có để giấy tờ xe, sau đó kiểm tra 02 chiếc điện thoại trộm cắp, có một chiếc bật được nguồn nhưng bị cài đặt mật khẩu nên không mở được, còn một chiếc thì không bật được nguồn nên Đ đã vứt bỏ 02 điện thoại trên xuống suối nước, rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô trên đến gặp ông Hồ Công A, ở thôn Q, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, thỏa thuận và viết giấy tờ mua bán chiếc xe trên cho ông A với giá tiền là 6.500.000 đồng, bán được xe Đ thuê xe tắc xi chạy đi theo hướng Quốc lộ 26 lên thành phố B tiêu xài, sau đó về lại huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an xã Y, huyện C, tỉnh Đắk Lắk triệu tập đến giải quyết.

Tại kết luận giám định số 161/PC54 ngày 12/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ viết, chữ ký đứng tên Phạm Văn Đ trong “Giấy bán xe” đề ngày 07/11/2017 so với chữ viết, chữ ký đứng tên Phạm Văn Đ trong các tài liệu mẫu so sánh, kí hiệu M1 (bản cam kết của Phạm Văn Đ vào ngày 08/11/2017), M2 (bản tự khai của Phạm Văn Đ vào ngày 08/11/2017) là do cùng một người viết và ký ra.

Tại kết luận định giá tài sản số 102/KL-HĐĐG ngày 29/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, tỉnh Đắk Lắk xác định: Giá trị 01 xe mô tô biển số 47N8 – 8001, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu xanh đen tại thời điểm ngày 07/11/2017 là 6.100.000 đồng. Đối với 02 điện thoại di dộng Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không có thông tin để định giá.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HSST ngày 06/7/2018 của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Đ 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 30/3/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/7/2018, bị cáo Phạm Văn Đ kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Văn Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu theo đơn kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk luận tội, phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ. Xét mức hình phạt 09 (chín) tháng tù đối với bị cáo Phạm Văn Đ là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nhưng xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục số tiền 6.500.000 đồng cho ông Hồ Công A nhưng cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là thiếu sót. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo – Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 13/2018/HSST ngày 06/7/2018 của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk:

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Phạm Văn Đ 09 (chín) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/3/2018.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 07/11/2017, Phạm Văn Đ đã lén lút vào nhà ông Nguyễn Xuân T (là anh rể của Đ) trộm cắp 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 47N8-8001 trị giá 6.100.000 đồng và 02 điện thoại di động (không xác định được giá trị). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo đã hoàn trả lại số tiền 6.500.000 đồng cho ông Hồ Công A nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là thiếu sót. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 13/2018/HSST ngày 06/7/2018 của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Đ - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HSST ngày 07/7/2018, của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Đ 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam, ngày 30/3/2018.

[3] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng tiền án phí.

Bị cáo Phạm Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 295/2018/HSPT ngày 17/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:295/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về