Bản án 29/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HS ngày 20/5/2021 đối với bị cáo:

Tô Tiến M - sinh ngày 05/12/1971 tại tỉnh Thái Bình; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 6 (tổ 13 cũ), phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở: tổ 14, phường T1, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tô Văn Đ (đã chết) và bà: Lâm Thị L (đã chết); Vợ đã ly hôn: Phạm Thị H, sinh năm 1972, có 01 con sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/12/2020, đến ngày 30/12/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Văn T2 – sinh năm 2001; Địa chỉ: thôn T3, xã Đ1, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Ông Phạm Mạnh H1 – sinh năm 1950; Địa chỉ: đường N, tổ 11, phường Đ2, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Chị Đinh Thị T4 – sinh năm 1985; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: bản P, xã S, huyện V, tỉnh Yên Bái; Chỗ ở: tổ 14, phường T1, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

(Những người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 24/12/2020, tại đường T5, tổ 01, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình bắt quả tang Tô Tiến M mang theo 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu xanh, bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt, Tô Tiến M khai đó là ma túy đá mang đi bán kiếm lời. Cơ quan Công an đã tiến hành quản lý, niêm phong vật chứng đó của Tô Tiến M (ký hiệu M). Ngoài ra cơ quan Công an còn quản lý của bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu sơn xanh, biển kiểm soát 17B5-XXX.XX; 01 cân điện tử vỏ màu đen đã cũ; 01 điện thoại Samsung vỏ màu đen đã cũ.

Cùng ngày 24/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô Tiến M tại tổ 14, phường T1, thành phố T, tỉnh Thái Bình, đã thu giữ và quản lý các vật chứng, đồ vật sau: Thu trong phòng trọ số 3: Tại túi áo véc bên phải, trong tủ quần áo 01 túi nilon trong suốt có mép cài kích thước 6x8cm bên trong có 35 (ba mươi lăm) viên nén hình trụ màu nâu (ký hiệu M1); 02 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ kích thước (3x7) cm, bên trong đều chứa chất dạng tinh thể trong suốt (ký hiệu M2). Thu trên mặt bàn nước cạnh cửa sổ phía trước 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ kích thước (3x7) cm, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt (ký hiệu M3) và 01 cân điện tử màu đen có chữ POCKET SCALE. Thu trong ngăn kéo tủ quần áo 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu đỏ, bên trong chứa chất bột dạng cục màu vàng (ký hiệu M4). Thu 01 mắt camera trước cửa phòng trọ số 3. Thu trong loa để trên nóc nhà vệ sinh phòng trọ số 1 số tiền 23.000.000 đồng.

Kết luận giám định số 467/KLGĐMT-PC09 ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận:

“Mẫu vật gửi giám định (trong phong bì ký hiệu Mẫu M) là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,2089 gam (Một phẩy hai nghìn không trăm tám mươi chín gam);

Mẫu vật gửi giám định (trong phong bì ký hiệu Mẫu M1) là ma túy, có hai loại Methamphetamine và Ketamine, khối lượng 14,0656 gam (Mười bốn phẩy không nghìn sáu trăm năm mươi sáu gam);

Mẫu vật gửi giám định (trong phong bì ký hiệu Mẫu M2) là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 16,0340 gam (Mười sáu phẩy không nghìn ba trăm bốn mươi gam);

Mẫu vật gửi giám định (trong phong bì ký hiệu Mẫu M3) là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 3,0825 gam (Ba phẩy không nghìn tám trăm hai mươi lăm gam);

Mẫu vật gửi giám định (trong phong bì ký hiệu Mẫu M4) là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,7765gam (Không phẩy bảy nghìn bảy trăm sáu mươi lăm gam)”.

Kết luận giám định số 197/C09-TT2 ngày 14/01/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: “Khối lượng của từng chất ma túy Methamphetamine và Ketamine trong 12,8246 gam mẫu gửi giám định lần lượt là 0,0025 gam và 0,0192 gam”.

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo khai mua của một người phụ nữ khoảng 35 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực cầu T6, thuộc xã T7, huyện V1, tỉnh Thái Bình vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 23/4/2020, với giá 6.000.000 đồng. Sau khi mua ma túy, M đem ma túy về phòng trọ ở tổ 14, phường T1, thành phố T, tỉnh Thái Bình, chia nhỏ túi ma túy đá loại Methamphetamine thành 04 túi nhỏ, sau đó cất giấu tất cả số ma túy mua được tại nhiều nơi trong phòng trọ, mục đích để bán kiếm lời.

Cáo trạng số 31/CT-VKSTB ngày 05/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thái Bình đã truy tố bị cáo Tô Tiến M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tô Tiến M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Tô Tiến M từ 11 đến 12 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam; Phạt bổ sung bị cáo Tô Tiến M từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước. Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy, dụng cụ cân ma túy. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động, 01 mắt camera, 01 xe mô tô và số tiền 23.000.000 đồng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

- Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ kết tội đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn nhận tội. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, gồm:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ 20 phút ngày 24/12/2020 tại trụ sở Công an phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình (Bút lục số 02, 03);

- Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu lập hồi 15 giờ 35 phút và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ lập hồi 15 giờ 40 phút ngày 24/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tại trụ sở Công an phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (Bút lục số 45, 46);

- Biên bản khám xét lập hồi 16 giờ; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu lập hồi 16 giờ 45 phút và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ lập hồi 16 giờ 50 phút cùng ngày 24/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tại tổ 14, phường T1, thành phố T (Bút lục từ số 39 đến số 42);

- Kết luận giám định số 467/KLGĐMT-PC09 ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số 27, 28);

- Lời khai của người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 2001, trú tại thôn T3, xã Đ1, thành phố T (Bút lục từ số 138 đến số 141); ông Phạm Mạnh H1, sinh năm 1950, trú tại ngõ 50, đường N, tổ 11, phường Đ2, thành phố T1, tỉnh Thái Bình (Bút lục từ số 142 đến số 145) và chị Đinh Thị T4, sinh năm 1985, đăng ký hộ khẩu thường trú: bản P, xã S, huyện V, tỉnh Yên Bái, chỗ ở hiện nay:

tổ 14, phường T1, thành phố T, tỉnh Thái Bình (Bút lục số 148, 149);

- Cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 24/12/2020, tại đường T5, tổ 01, phường B, thành phố T1, tỉnh Thái Bình, Tô Tiến M mang theo 01 túi nilon bên trong có chứa 1,2089 gam ma túy loại Methamphetamine để bán. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô Tiến M tại tổ 14, phường T1, thành phố T, tỉnh Thái Bình, Cơ quan điều tra thu 01 túi nilon bên trong có chứa 35 (ba mươi lăm) viên nén hình trụ màu nâu, là ma túy loại Methamphetamine và Ketamine, có khối lượng 14,0656 gam; 03 túi nilon bên trong đều chứa ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 19,1165 gam; 01 túi nilon bên trong chứa ma túy loại MDMA có khối lượng 0,7765 gam. Toàn bộ số ma tuý quản lý nêu trên, bị cáo Tô Tiến M xác định là của bị cáo để bán kiếm lời.

Đối với 35 viên nén hình trụ màu nâu có tổng khối lượng 14,0656 gam gồm 02 chất hợp thành là Methamphetamine và Ketamine. Theo kết quả giám định, khối lượng của Methamphetamine trong mẫu rất nhỏ nên không thể xác định được tỷ trọng. Nếu cùng khối lượng như nhau, Ketamine thuộc nhóm chất ma túy thể rắn ở khung hình phạt trong Bộ luật Hình sự có mức hình phạt nhẹ hơn so với Methamphetamine. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, trong vụ án này xác định toàn bộ 35 viên nén là Ketamine có khối lượng là 14,0656 gam.

Như vậy, tổng khối lượng ma túy loại Methamphetamine, Ketamine, MDMA Tô Tiến M mua về để bán là 20,3254 gam Methamphetamine; 0,7765 gam MDMA và 14,0656 gam Ketamine.

Căn cứ khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ được của Tô Tiến M như sau: (21,1019 gam Methamphetamne và MDMA : 30) + (14,0656 gam Ketamine : 100) = 84,39% (dưới 100%). Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Tô Tiến M đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

g) Qua biên giới;

h) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

k) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam; m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam; n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

q) Tái phạm nguy hiểm.

[…] 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng; gây nguy hại rất lớn cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy, biết rõ việc pháp luật nghiêm cấm hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm khắc bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo M có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo M không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có bố đẻ là ông Tô Văn Đ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt:

- Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua bán ma túy mục đích vụ lợi, vì vậy cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

[6] Về xử lý vật chứng:

Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy số ma túy quản lý của bị cáo được hoàn lại sau giám định, niêm phong trong các phong bì hoàn mẫu vật giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và Viện Khoa học hình sự Bộ Công an;

- 01 cân điện tử vỏ màu đen có chữ POCKET SCALE quản lý của bị cáo là vật có liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Trả lại bị cáo đồ vật tài sản đã quản lý không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo gồm: 01 mắt camera; 01 điện thoại di động Samsung vỏ màu đen;

01 xe mô tô Honda nhãn hiệu Airblade, màu sơn xanh, biển kiểm soát 17B5- 265.53 và số tiền 23.000.000 đồng, nhưng tiếp tục quản lý số tiền 23.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

[7] Các vấn đề khác:

- Bị cáo khai mua ma túy của người phụ nữ khoảng 35 tuổi ở khu vực cầu T6, xã T7, huyện V1, tỉnh Thái Bình, bị cáo khai không biết thông tin cụ thể về nhân thân của người này, vì vậy Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý.

- Đối với chiếc xe mô tô Honda nhãn hiệu Airblade, màu xanh, biển kiểm soát 17B5-XXX.XX, Tô Tiến M mua của anh Vũ Đình T8, sinh năm 1989, trú tại thôn M1, xã C, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 18/11/2020, hai bên đã lập giấy mua bán xe, có xác nhận của chính quyền địa phương, hiện bị cáo chưa sang tên chủ sở hữu. Anh T8 xác nhận đã bán chiếc xe này cho bị cáo. Vì vậy có căn cứ xác định chiếc xe mô tô này là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo. Anh T8 không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, vì vậy Cơ quan Điều tra không xử lý đối với anh Vũ Đình T8 là phù hợp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tô Tiến M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2] Về hình phạt:

- Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Tô Tiến M 11 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 24/12/2020.

- Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy quản lý của bị cáo được hoàn lại sau giám định, niêm phong trong các phong bì hoàn trả mẫu vật giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và Viện Khoa học hình sự Bộ Công an gồm:

04 (bốn) phong bì niêm phong số 467/KLGĐ-PC09 ngày 25/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 01 (một) phong bì niêm phong số 197/C09-TT2 ngày 14/01/2021 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử vỏ màu đen có chữ POCKET SCALE đã cũ.

- Trả lại bị cáo Tô Tiến M 01 mắt camera; 01 điện thoại Samsung vỏ màu đen đã cũ; 01 xe mô tô Honda nhãn hiệu Airblade, màu sơn xanh, biển kiểm soát 17B5-XXX.XX và số tiền 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng chẵn) nhưng tiếp tục quản lý 23.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

(Các vật chứng có đặc điểm thể hiện tại Biên bản giao nhận ngày 06/5/2021 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Thái Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình)

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Tô Tiến M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/6/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về