Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 17/04/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 4 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 936/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Trần Thị Thu T, sinh năm 1983; có mặt.

Địa chỉ: ấp LT, xã LDB, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: anh Phạm Phú B, sinh năm 1986; vắng mặt.

Địa chỉ: ấp LT, xã LDB, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2019, quá trình tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị Thu T trình bày:

Vào năm 2004, thông qua mai mối nên chị với anh Phạm Phú B được gia đình cha mẹ hai bên đồng ý tiến hành tổ chức lễ cưới về chung sống với nhau, đến năm 2006 thì đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tân B, huyện Thanh B, tỉnh Đồng Tháp cấp giấy Chứng nhận kết hôn số 52 ngày 28/6/2006. Sau đó, vợ chồng tiếp tục chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau từ đó mà anh B đã bỏ đi cho đến nay vợ chồng không một lần tới lui.

Về con chung: quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Tường V, sinh ngày 22/10/2004 đang do chị nuôi dưỡng và Phạm Phú N, sinh ngày 26/12/2010, đang do anh B nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: không có.

Về nợ chung: vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Nhận thấy tình của chị dành cho anh B không còn nên có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh B. Về con chung thì chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi cháu Phạm Tường V và đồng ý để anh B được quyền tiếp tục nuôi cháu Phạm Phú N; không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng do không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Phạm Phú B đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập anh B đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không rõ lí do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Trần Thị Thu T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chồng là anh Phạm Phú B và được quyền tiếp tục nuôi con chung nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về Hôn nhân và Gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Anh B với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại ấp LT, xã LDB, huyện C, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh B đến lần thứ hai nhưng anh vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt này của anh B không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của anh và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh B là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: chị T cho rằng vào năm 2004, sau khi tìm hiểu nhau về tình cảm, chị với anh B quyết định tổ chức lễ cưới về chung sống với nhau đến năm 2006 thì đăng ký kết hôn theo quy định. Thời gian đầu mặc dù vợ chồng chung sống có hạnh phúc nhưng đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau nên anh B bỏ đi không còn chung sống với chị cho đến nay. Chứng minh cho lời trình bày của mình, chị T có cung cấp giấy Chứng nhận kết hôn số 52 ngày 28/6/2006; Giấy khai sinh số 372/2011 của cháu Phạm Phú N và Giấy khai sinh số 244/2004 của cháu Phạm Tường Vi. Như vậy chị T đã thực hiện N vụ chứng minh của mình theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; ngược lại, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng anh B vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham dự phiên tòa, không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Do đó, lời trình bày cũng như chứng cứ mà chị T cung cấp làm cơ sở để Tòa án xác định hôn nhân giữa chị T và anh B là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận nhưng vì mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn làm cho vợ chồng không còn chung sống, không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau kể từ năm 2019 đến nay là có thật. Qua đó cho thấy anh, chị đã vi phạm nghiêm trọng quyền, N vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị T có yêu cầu được ly hôn với anh B là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Tòa án chấp nhận.

Về quan hệ con chung: chị T xác định quá trình chung sống, chị với anh B có 02 con chung tên Phạm Tường V, sinh ngày 22/10/2004 do chị đang nuôi dưỡng và Phạm Phú N, sinh ngày 26/12/2010 do anh B đang nuôi dưỡng. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn chung sống cho đến nay, cháu V sống chung với chị T; cháu N chung sống với anh B, dưới sự chăm sóc, giáo dục của anh chị, các cháu đang sinh sống ổn định và phát triển B thường, cho thấy chị T và anh B đều có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục mỗi cháu. Do đó chị T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi cháu V và đồng ý để anh B tiếp tục nuôi cháu N là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nghĩ nên chấp nhận; ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì sau khi ly hôn, anh B, chị T vẫn có quyền, N vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng cho con, do chị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết; tuy nhiên, vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.

Về quan hệ tài sản chung: chị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết, vì vậy Tòa án không xem xét nhưng nếu sau này các bên chứng minh vợ chồng có tài sản chung trong thời hôn nhân mà không tự thỏa thuận phân chia được thì có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn ở vụ án dân sự khác.

Về quan hệ nợ chung: chị T cho rằng vợ chồng không nợ ai và không ai nợ vợ chồng nên không có yêu cầu gì, vì vậy Tòa án cũng không xem xét giải quyết nhưng nếu sau này có bên thứ ba bất kỳ chứng minh được nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị T vẫn phải cùng anh B liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án dân sự khác.

[3] Về án phí: chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007763 ngày 26/12/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang. Anh B không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 Điều 91; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 56; Điều 81 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận cho chị Trần Thị Thu T được ly hôn với anh Phạm Phú B.

2. Về con chung: chị T được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Tường V, sinh ngày 22/10/2004; anh B được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Phú N, sinh ngày 26/12/2010. Chị T, anh B có quyền, N vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007763 ngày 26/12/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang. Anh B không phải chịu án phí.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 17/04/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về