Bản án 28/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 15 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án Nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Thanh L; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 11/08/2001 tại: Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 44/X Đinh Hoà, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 44/X Đinh Hoà, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Huỳnh Thanh H, sinh năm: 1973; Mẹ: Lê Thị Thanh T, sinh năm: 1976; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:Bà Lê Thị Thanh T; địa chỉ: 44/X Đinh Hoà, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; là mẹ của bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo:Ông Bùi Quang Liêm, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Trần Quang B; Giới tính: nam; Sinh năm: 04/9/2001 tại: Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 49C/X Cao Xuân Dục, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 49C/X Cao Xuân Dục, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Mẹ: Trần Hồng N, sinh năm 1983; Cha: vô danh; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa cól Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Trần Hồng M; địa chỉ: 49X/9A Cao Xuân Dục, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh, là dì của bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo:Ông Bùi Quang Liêm, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Huỳnh Chí P; Giới tính: Nam; Sinh năm: 08/11/2000 tại: Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 76C Ụ Cây, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 76C Ụ Cây, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Huỳnh Văn T, sinh năm 1973; Mẹ: Phan Thị P, sinh năm 1976; gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Phan Thị P; địa chỉ: 76C Ụ Cây, Phường M, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh, là mẹ của bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Quang Liêm, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị hại: Anh Lý Quốc C, sinh năm 1999; địa chỉ: 103/X Đường B, Lò Siêu, Phường M, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 25/4/2018, anh Lý Quốc C đang cùng nhóm bạn uống nước tại quán café IN THE HOUSE (số 269/3 Nguyễn Trãi, Phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1) thì có Huỳnh Thanh L và Nguyễn Chí P cũng đang ngồi trong quán, 2 bên nhìn qua nhìn lại với nhau. Sau đó, L nói với P là anh C nhìn “đểu” mình và rủ P đánh anh C, thì được P đồng ý. Sau đó, L mượn điện thoại của P gọi rủ Trần Quang B và kêu B rủ thêm N (không rõ lai lịch) và T (không rõ lai lịch) mang theo 2 con dao tự chế đến chém anh C. Sau khi điện thoại cho B xong, L nói cho P biết việc kêu B rủ thêm người và mang hung khí đến để chém anh C. Sau đó, L kêu P gọi anh C ra đầu hẻm 269 Nguyễn Trãi còn L ra đầu hẻm đứng chờ B, Tuấn, Nhật đến. Khi anh C đi ra thì L chỉ cho B, Tuấn, Nhật biết anh C. Lúc này, B và L mỗi người cầm 1 con dao tự chế chạy đến chém nhiều nhát vào tay trái và tay phải của anh C gây thương tích. Sau đó, cả nhóm bỏ chạy và ném 2 con dao ở Cầu chữ Y, Quận 8 phi tang. Riêng anh C được mọi người đưa vào bệnh viện Sài Gòn cấp cứu.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 401/TgT.18 ngày 04/6/2018 của Trung tâm pháp y- Sở y tế TP.HCM kết luận thương tật của anh Lý Quốc C:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương cánh tay trái gây đứt da, đứt cơ tam đầu, mẻ thân xương cánh tay, đã được điều trị khâu vết thương, hiện còn sẹo kích thước 10,6x0,3cm tại cánh tay, ổn định. 

Có tỉ lệ 05% Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

- Vết thương mặt lòng ngón III tay phải gây đứt da, đứt bán phần gân gấp sâu, đã được điều trị khâu gân vết thương, hiện còn sẹo kích thước 7,3x0,2cm tại ngón III, tê ngón III do tổn thương nhánh thần kinh giữa, ổn định. Có tỉ lệ 07%.

- Vết thương mặt lòng ngón IV tay phải gây đứt da, đứt gân gấp sâu ngón IV, đã được điều trị khâu gân,khâu vết thương, hiện còn sẹo kích thước 5,2x0,2cm tại ngón IV, tê ngón IV do tổn thương nhính cảm giác thần kinh giữa, hạn chế gấp ngón IV. Có tỉ lệ 09%.

- Vết thương phần mềm tạo sẹo kích thước 1,5x0,2cm ở đầu ngón IV tay trái, ổn định. Có tỉ lệ 01%

Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra. Cộng lùi các tỉ lệ trên sẽ ra tỉ lệ 20,4%, làm tròn số sẽ là 20%.

2. Theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương C thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần:

- Tỉ lệ tổn thương C thể do thương tích gây nên hiện tại là 20%.

3. Kết luận khác:

- Các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

Qua truy xét, ngày 09/5/2018, cơ quan CSĐT – CAQ1 mời Huỳnh Thanh L lên làm việc; đến ngày 06/8/2018, Huỳnh Chí P đến Cơ quan CSĐT – CAQ1 đầu thú và ngày 21/9/2018, Trần Quang B đến Cơ quan CSĐT – CAQ1 đầu thú.

Quá trình điều tra, Huỳnh Thanh L, Trần Quang B và Huỳnh Chí P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đối với Tuấn và Nhật do chưa xác định được lai lịch nên chưa có cơ sở xử lý, cơ quan CSĐT – CAQ1 tiếp tục truy xét, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Về dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, gia đình Huỳnh Thanh L, Huỳnh Chí P và Trần Quang B đã bồi thường, hỗ trợ tiền thuốc men cho anh Lý Quốc C và anh C đã làm bãi nại cho L, P và B.

Tại bản cáo trạng số 15/CTr-VKSQ1 ngày 07 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Huỳnh Thanh L, Trần Quang B và Huỳnh Chí P về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà:

- Các bị cáo Huỳnh Thanh L, Trần Quang B và Huỳnh Chí P thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

- Người đại diện hợp pháp của các bị cáo Huỳnh Thanh L, Trần Quang B, Huỳnh Chí P thống nhất tội danh bị truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và cho các bị cáo được hưởng án treo.

- Người bào chữa cho các bị cáo Huỳnh Thanh L, Trần Quang B, Huỳnh Chí P thống nhất tội danh bị truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, bị hại đã có đơn bãi nại, để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Bị hại Lý Quốc C vắng mặt tại phiên tòa. Trong hồ sơ vụ án, bị hại trình bày: đã được nhận số tiền bồi thường thuốc men 26.000.000 đồng và đồng ý bãi nại cho các bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, nêu quan điểm luận tội như sau:

+ Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo như nội dung bản cáo trạng.

+ Đề nghị tuyên bị cáo Huỳnh Thanh L, Trần Quang B và Huỳnh Chí P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, Điều 101, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt:

* Bị cáo Huỳnh Thanh L từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo;

* Bị cáo Trần Quang B từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo;

* Bị cáo Huỳnh Chí P 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, luật sư, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên C sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra - Công an Quận 1, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Thanh L, Trần Quang B và Huỳnh Chí P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra (BL 122-128, 130-139, 159-176, 196-208), lời khai của bị hại (BL 83-84, 115), của người làm chứng (BL 72-78), biên bản nhận dạng (BL 143-146, 179- 180, 205-210), biên bản đầu thú (BL 156, 195), Bản kết luận giám định pháp y số 401/TgT.18 ngày 04/06/2018 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh và các tài liệu khác mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ C sở kết luận: Huỳnh Thanh L, Trần Quang B và Huỳnh Chí P đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Hành vi của các bị cáo Huỳnh Thanh L, Huỳnh Chí P, Trần Quang B đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về trách nhiệm hình sự của từng bị cáo:

[4] Đối với bị cáo Huỳnh Thanh L: Hành vi phạm tội của bị cáo L là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do bị cáo L cùng đồng bọn gây ra là rất nghiêm trọng, không những xâm phạm đến sức khỏe của con người mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình quản lý trật tự, trị an xã hội. Chỉ vì cho rằng mình bị anh Lý Quốc C nhìn đểu tại quán café In The House, nên L đã rủ Huỳnh Chí P đi đánh anh C, sau khi P đồng ý thì L chủ động mượn điện thoại của P gọi thêm Trần Quang B và Tuấn, Nhật mang vũ khí đến. Khi gặp C ở đầu hẻm 269

Nguyễn Trãi, L là người chỉ điểm anh C cho đồng bọn biết và trực tiếp dùng dao tự chế chém nhiều nhát vào anh C. Trong vụ án này, L có vai trò chủ mưu, là người chủ động rủ rê, phân công P đi gọi anh C ra đầu hẻm, gọi B, Tuấn, Nhật mang dao tự chế đến, chỉ điểm anh C cho đồng bọn cùng chém và trực tiếp thực hiện hành vi chém anh C gây thương tích. Hành vi của bị cáo L là tiền đề cho các bị cáo khác tham gia chém gây thương tích bị hại. Qua giám định, tỉ lệ tổn thương C thể do thương tích gây nên đối với bị hại là 20%, do thời điểm L và B dùng dao chém anh C là cùng một lúc, không xác định được tỷ lệ thương tích mà mỗi bị cáo gây ra cho anh C, do đó, cần buộc bị cáo L và B cùng chịu trách nhiệm đối với tổng tỷ lệ thương tích là 20%. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn liều lĩnh, bất chấp hậu quả, thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo L thể hiện thái độ hung hăng, côn đồ. Do đó, hình phạt áp dụng đối với bị cáo Huỳnh Thanh L phải nghiêm khắc theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[5] Đối với bị cáo Trần Quang B: Hành vi phạm tội của bị cáo B là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do bị cáo B cùng với đồng bọn gây ra là nghiêm trọng, không những xâm phạm đến sức khỏe của con người mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình quản lý trật tự, trị an xã hội. Chỉ vì nghe lời rủ rê của L, B đã cùng cố ý dùng hung khí nguy hiểm là dao tự chế chém nhiều nhát gây thương tích cho Lý Quốc C với tỷ lệ thương tích là 20%. Do đó, hình phạt áp dụng đối với bị cáo B phải nghiêm khắc theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[6] Đối với bị cáo Huỳnh Chí P: Khi nghe Huỳnh Thanh L nói thấy anh C nhìn đểu mình và rủ đi đánh anh C, bị cáo P là người lớn tuổi hơn thay vì can ngăn nhưng lại không tự kiềm chế bản thân mà đồng ý tham gia đánh anh C, bị cáo còn cho L mượn điện thoại gọi thêm người mang vũ khí đến và còn nhận nhiệm vụ gọi anh C ra đầu hẻm để đồng bọn cùng chém. Mặc dù P không trực tiếp chém anh C, nhưng hành vi của P đã giúp sức tích cực cho L và B gây thương tích cho bị hại, bản thân bị cáo nhận thức được hậu quả nhưng cùng cố ý muốn hậu quả xảy ra, do đó, cũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với toàn bộ thương tích của bị hại. Vì vậy, hình phạt áp dụng đối với bị cáo P phải thỏa đáng theo điểm đ, khoản 2, Điều 134 Bộ luật hình sự.

[7] Tuy nhiên, quá trình xem xét trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bản thân các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; phạm tội lần đầu; sau khi phạm tội bị cáo L, P đã ra đầu thú; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, tất cả các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại chi phí điều trị và được bị hại đồng ý bãi nại.

[8] Mặt khác, Hội đồng xét xử cũng xem xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội là ngày 25/4/2018, bị cáo Huỳnh Thanh L chỉ mới 16 tuổi 8 tháng 14 ngày, trình độ học vấn lớp 8/12; bị cáo Trần Quang B chỉ mới 16 tuổi 8 tháng 21 ngày, trình độ học vấn lớp 9/12; bị cáo Huỳnh Chí P chưa tròn 18 tuổi, trình độ học vấn 5/12, nhận thức về hành vi và về pháp luật của các bị cáo còn hạn chế. Mặc dù các bị cáo có sự phối hợp với nhau trong việc gây thương tích cho bị hại nhưng chỉ là đồng phạm ở mức độ giản đơn. Hành vi của các bị cáo mang tính chất nông nổi, bồng bột, hành động theo cảm tính. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong quá trình được tại ngoại không vi phạm pháp luật và có khả năng tự cải tạo. Do đó, khi lượng hình đối với các bị cáo cần áp dụng thêm quy định tại Điều 91, Điều 101 Chương XII Bộ luật Hình sự.

[9] Từ những lập luận trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc cho các bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lý Quốc C đã được nhận số tiền bồi thường thuốc men 26.000.000 đồng và đồng ý bãi nại cho các bị cáo, không có yêu cầu bồi thường gì khác, do đó, Hội đồng xét xử không xét.

[11] Về vật chứng:

- 02 con dao tự chế, hiện không thu hồi được;

- 01 đĩa ghi hình việc Huỳnh Chí P, Huỳnh Thanh L và Lý Quốc C đi ra khỏi quán cafe IN THE HOUSE kèm trong hồ sơ vụ án, cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[13] Các bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Thanh L, Huỳnh Chí P và Trần Quang B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ vào điểm đ Khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 91, Điều 101, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh L 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường 13, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào điểm đ Khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 91, Điều 101, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Huỳnh Chí P 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường 10, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào điểm đ Khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 91, Điều 101, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Quang B 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 đĩa ghi hình việc Huỳnh Chí P, Huỳnh Thanh L và Lý Quốc C đi ra khỏi quán cafe IN THE HOUSE.

- Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Các bị cáo Huỳnh Thanh L, Huỳnh Chí P,Trần Quang B, người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho các bị cáo L và B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Lý Quốc C có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về