Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2019, tại T sở Toà án nhân dân thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2019 về việc “ Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn”, Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 27/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04-7-2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị M, sinh năm 1990; HKTT: Xóm Nam, xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; Địa chỉ hiện nay: Xóm Đông, xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. (Vắng mặt, có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Cao Văn T, sinh năm 1989; Địa chỉ: Xóm Nam, xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. (Đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 21-02-2019, nguyên đơn là chị Hoàng Thị M khai:

Chị và anh Cao Văn T có thời gian tìm hiểu nhau là 06 tháng, sau đó hai người tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 22 tháng 03 năm 2011. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc hoà thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng là do anh T không tu chí làm ăn, chơi bời, cờ bạc dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau và đánh nhau. Chị đã tìm nhiều biện pháp để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng nhưng không có kết quả. Chị và anh T đã sống ly thân mỗi người một nơi từ năm 2013 cho đến nhay không còn quan tâm gì đến nhau. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, hôn nhân kéo dài không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng đã hết nên chị khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Văn T. Chị và anh T có 02 con chung là: Cao AT, sinh ngày 27-02-2009 và Cao AT1, sinh ngày 30-03-2011. Hiện nay 02 con chung đang sống cùng chị. Ly hôn, chị đề nghị Toà án giao cả 02 con chung cho chị trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên, chị tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thị xã Q đã triệu tập hợp lệ bị đơn là anh Cao Văn T đến Toà án nhiều lần nhưng anh T vắng mặt không có lý do. Toà án cũng đã thông báo cho các đương sự đến Toà án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Nhưng sau khi nhận Thông báo trên, nguyên đơn là chị Hoàng Thị M có đơn đề nghị vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đề nghị Toà án không tiến hành hoà giải, còn bị đơn là anh Cao Văn T vắng mặt không có lý do. Do đó, Toà án không mở được phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tiến hành hoà giải được và ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập của Toà án, chị Hoàng Thị M có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt với lý do chị phải đi công tác do kế hoạch đã định trước nên không thể có mặt tại phiên toà.

Ti phiên toà sơ thẩm: Chị Hoàng Thị M và anh Cao Văn T đều vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên toà về cơ bản đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Nguyên đơn chấp hành pháp luật tố tụng, còn bị đơn không chấp hành pháp luật, gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị M, xử cho chị M được ly hôn với anh Cao Văn T. Giao 02 con chung là Cao AT, sinh ngày 27-02-2009 và Cao AT1, sinh ngày 30-03-2011 cho chị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chung mà không ai được cản trở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1 Về tố tụng:

- Về thẩm quyền xét xử của Tòa án: Chị Hoàng Thị M khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Văn T, hiện đang cư trú tại xóm Nam, xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh.

- Về việc xét xử vắng mặt các đƣơng sự: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ các đương sự đến phiên toà sơ thẩm. Nhưng chị Hoàng Thị M có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt và vắng mặt tại phiên toà, còn anh Cao Văn T đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Toà án xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định tại các điểm a,b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2 Về nội dung:

- Về tình cảm: Chị Hoàng Thị M và anh Cao Văn T tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 22 tháng 03 năm 2011. Nên hôn nhân giữa chị M và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn, chị M và anh T về chung sống tại gia đình chồng ở Xóm Nam, xã LV, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng bất đồng về quan điểm sống. Từ đó dẫn đến tình trạng vợ chồng không còn tôn trọng, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau mà thường xuyên cãi nhau và chửi nhau. Chị M và anh T cũng đã sống ly thân mỗi người một nơi từ cuối năm 2018 cho đến nay không còn quan tâm gì đến nhau, nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ về nhân thân là tình nghĩa vợ chồng quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Đến nay chị M xác định tình cảm vợ chồng đã hết nên chị khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Điều đó chứng tỏ hôn nhân giữa chị M và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững không đạt được. Vì vậy, Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị M, xử cho chị M được ly hôn với anh Cao Văn T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung:

Quá trình chung sống, chị Hoàng Thị M và anh Cao Văn T có 02 con chung là Cao AT, sinh ngày 27-02-2009 và Cao AT1, sinh ngày 30-03-2011. Ly hôn, chị M đề nghị Toà án giao 02 con chung cho chị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên. Chị M tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, hiện tại 02 con chung là Cao AT và Cao AT1 đang sống cùng chị M. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 27-02- 2019, các con chung là Cao AT và Cao AT1 đều có lời khai đề nghị Toà án giao các cháu cho chị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh T không có quan điểm gì về con chung. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các con chung cũng như ổn định việc sinh hoạt và học hành của con chung, Toà án chấp nhận đơn khởi kiện của chị M, giao 02 con chung là Cao AT và Cao AT1 cho chị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên là phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Do chị M tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Toà án không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng là phù hợp với quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự.

Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chung mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, chị Hoàng Thị M khai chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết. Do đó, Toà án không xem xét, giải quyết về tài sản chung và công nợ chung là phù hợp với quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.

3 Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị M phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị M đã nộp đủ án phí ngày 21-02-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q.

4 Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị M và anh Cao Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; các điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Khoản 1 Điều 6; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;

Xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị M.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị M được ly hôn với anh Cao Văn T.

- Về con chung: Giao 02 con chung là Cao AT, sinh ngày 27-02-2009 và Cao AT1, sinh ngày 30-03-2011 cho chị Hoàng Thị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên.

Anh Cao Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Cao Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Toà án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Hoàng Thị M phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị M đã nộp theo biên lai thu số 0003236 ngày 21- 02- 2019 của Chi Cục thi hành án dân sự thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Chị M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị M và anh Cao Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về