Bản án 278/2018/DS-PT ngày 22/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 278/2018/DS-PT NGÀY 22/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xửphúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2018/TLPT - DS ngày 02 tháng 8 năm2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2018/DS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2018của Tòa án nhân dân huyện G bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 197/2018/QĐ-PTngày 09 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trịnh Thị B, sinh năm 1973,

Địa chỉ cư trú: ấp H, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Quốc V, sinh năm1988, địa chỉ: ấp A, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre. (Văn bản ủy quyền ngày23/10/2017)

- Bị đơn: Võ Thị Bích H, sinh năm 1987,

Địa chỉ cư trú: ấp S, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thái Văn M, sinh năm 1985,

Địa chỉ cư trú: ấp S, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn Trịnh Thị B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm, nguyên đơn Trịnh Thị B trình bày:

Ngày 10/6/2017 âm lịch, nhằm ngày 01/8/2017, bị đơn chị Võ Thị Bích Hcó vay của chị số tiền là 205.000.000 đồng.

Đến ngày 12/7/2017 âm lịch, nhằm ngày 02/9/2017, chị H tiếp tục vay của chị số tiền 35.000.000 đồng.

Việc vay tiền này chị H có viết giấy biên nhận và hẹn sau 01 tháng sẽ trả hết tiền. Anh M là chồng chị H, anh M biết việc chị H vay tiền của chị để trả nợ vay của nhà nước. Đến hạn, chị yêu cầu chị H trả tiền cho chị nhưng chị H chỉ hứa mà cố tình né tránh. Vì vậy, chị khởi kiện yêu cầu buộc chị H cùng chồng là anh M trả cho chị số tiền nợ gốc là 240.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh với lãi suất 1,5%/tháng cho đến ngày xét xử, tạm tính tiền lãi từ ngày 01/8/2017 đến ngày 24/10/2017 là 205.000.000 đồng x 1,5%/tháng x 3 tháng = 9.225.000 đồng. Tổng cộng số tiền gốc và lãi chị H phải trả tạm tính đến ngày 24/10/2017 là 249.225.000 đồng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn Võ Thị Bích H, nhưng chị H vẫn không đến Tòa án để giải quyết tranh chấp hợp đồng vay với chị Trịnh Thị B, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H.

Trong quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh TháiVăn M trình bày:

Anh và chị Võ Thị Bích H là vợ chồng. Việc vay mượn giữa vợ anh là chị H và chị B thì anh hoàn toàn không biết. Đến khi sự việc xảy ra chị B có đến đòi nợ. Sau đó, chị H bỏ địa phương đi đâu, hiện nay ở đâu anh cũng không biết rõ. Khi chị H vay tiền của chị B không nói rõ và chị B cũng không báo với anh. Anh cũng không có ký tên vào biên nhận nợ. Việc nguyên đơn cho rằng chị H dùng tiền vay trả nợ ngân hàng là không có cơ sở vì anh vay tiền ngân hàng vào tháng 3. Do việc vợ anh vay tiền của chị B không bàn bạc với anh nên anh không đồng ý trả, để vợ anh tự giải quyết.

Sau khi hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện G đưa vụ án ra xét xử, tại Bản án số 52/2018/DS – ST ngày 08 tháng 5 năm 2018 đã tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị B.

Buộc chị Võ Thị Bích H phải trả cho chị Trịnh Thị B số tiền 265.317.500 đồng (hai trăm sáu mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng); trong đó: nợ gốc là 240.000.000 đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng) và nợ lãi là 25.317.500 đồng (hai mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của chị Trịnh Thị B, nếu chị Võ Thị Bích H chưa thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả là 10%/năm trên số tiền chậm trả.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của cácđương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/5/2018 nguyên đơn Trịnh Thị B kháng cáo, yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm xét xử buộc anh Thái Văn M phải liên đới cùng chị Võ Thị Bích H trả cho chị Trịnh Thị B số tiền 265.317.500 đồng (hai trăm sáu mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng).

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị đơn Võ Thị Bích H đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Anh Thái Văn M không đồng ý kháng cáo của nguyên đơn Trịnh Thị B, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng; về nội dung: nguyên đơn kháng cáo mà không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của chị B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Bản án sơ thẩm buộc bà Võ Thị Bích H phải trả cho bà Trịnh Thị B số tiền 265.317.500 đồng (hai trăm sáu mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng); trong đó: nợ gốc là 240.000.000 đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng) và nợ lãi là 25.317.500 đồng (hai mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng), phần này của Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị nên đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

 [2] Xét kháng cáo của bà Trịnh Thị B về việc yêu cầu anh Thái Văn M, chồng bà Võ Thị Bích H, phải có nghĩa vụ liên đới cùng chị H trả nợ cho chị, xét thấy hợp đồng vay chỉ có chị H tham gia giao dịch, anh M không tham gia ký kết hợp đồng, không có căn cứ chứng minh chị H sử dụng tiền vay vào mục đích chung của gia đình. Việc thu thập chứng cứ bổ sung tại Ngân hàng không xác định được chị H có tham gia vay Ngân hàng và cùng anh M trả nợ. Do đó không có căn cứ để buộc anh M cùng chị H liên đới trả nợ cho chị B, kháng cáo của chị B không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

 [3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên chấp nhận.

 [4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên chị B phải chịu án phí phúc thẩm theo Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của chị Trịnh Thị B.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2018/DS-ST ngày 08 tháng 5năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G.

Cụ thể tuyên:

Căn cứ các Điều 357, 463, 466, 468, 469 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị B.

Buộc chị Võ Thị Bích H phải trả cho chị Trịnh Thị B số tiền 265.317.500 đồng (hai trăm sáu mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng); trong đó: nợ gốc là 240.000.000 đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng) và nợ lãi là 25.317.500 đồng (hai mươi lăm triệu ba trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của chị Trịnh Thị B, nếu chị Võ Thị Bích H chưa thi hành án thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả là 10%/năm trên số tiền chậm trả.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Chị Võ Thị Bích H phải chịu 13.265.875 đồng (mười ba triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn tám trăm bảy mươi lăm đồng).

- Chị Trịnh Thị B không phải chịu, hoàn tạm ứng án phí đã nộp cho chị B số tiền 6.231.000 đồng (sáu triệu hai trăm ba mươi mốt nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012960 ngày 01/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Chị Trịnh Thị B phải chịu 300.000 đồng (batrăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tạm ứng án phí đã nộp số tiền300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0016862 ngày 23/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 278/2018/DS-PT ngày 22/10/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:278/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về