Bản án 27/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 27/2019/HSST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 36/2019/HSST ngày 04 tháng 5 năm 209. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn S, sinh năm 1958 tại Thái Bình Nơi cư trú: T4, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn L và bà Tạ Thị T; bị cáo có vợ và 05 người con. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16/12/1994 bị Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” Ngày 13/3/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bp xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2019 cho đến ngày 27/2/2019 được áp dụng biện pháp bảo lãnh (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 26 tháng 01 năm 2019, Vũ Văn S điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, không nhớ biển số đi từ nhà tại T4, xã BB, huyện Bù Đăng đến khu vực LM, xã ĐN, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông để mua ma túy. Tại đây, S gặp một người đàn ông tên Vàng và mua của Vàng 500.000 đồng ma túy (Heroin). Khi mua được ma túy, S điều khiển xe mô tô đi về nhà và chia số ma túy vừa mua được ra thành 07 gói (tép) nhỏ, đựng trong tờ lịch rồi bọc bằng 01 gói nilon màu trắng rồi cất giấu ngoài sân, che kín bằng vữa khô. Đến đầu giờ chiều ngày 28 tháng 01 năm 2019, S lấy 01 gói (tép) vào để sử dụng (tiêm chích) nhưng không hết nên để phần còn lại trên tấm gỗ trong phòng ngủ. Sau đó, Công an huyện Bù Đăng ập vào kiểm tra và phát hiện số ma túy S cất giấu nên lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ 06 gói ma túy đựng trong túi ni lông, 01 gói ma túy còn lại trong phòng ngủ S vừa sử dụng và một số đồ vật có liên quan khác.

Căn cứ kết luận giám định số 34/2019/GĐ-MT, ngày 31/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước xác định: 01 gói nylon bên trong đựng 06 gói giấy bên trong là ma túy có trọng lượng 0,3002 gam loại Heroin và 01 gói giấy bên trong là ma túy có trọng lượng 0,0112 gam loại Heroin. Số ma túy còn lại sau giám định là 0,2131 gam * Về vật chứng vụ án: 01 phong bì niêm phong số 41M1 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước đã chuyển cho Chi cục thi hành án huyện Bù Đăng để xử lý theo quy định.

Tại bản cáo trạng số: 38/CT-VKS-BĐ ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Vũ Văn S về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn S phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt, áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Vũ Văn S từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Bị cáo Vũ Văn S thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 26/01/2019, Vũ Văn S đến khu vực “LM” thuộc xã ĐN huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông đã mua của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói Ma túy với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo đem về nhà chia thành 07 gói nhỏ và cất giấu với mục đích sử dụng dần.

Qua giám định 01 gói nylon bên trong đựng 06 gói giấy bên trong là ma túy có trọng lượng 0,3002 gam loại Heroin và 01 gói giấy bên trong là ma túy có trọng lượng 0,0112 gam loại Heroin.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Vũ Văn S đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ……………………………………………

c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên do lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội. Bản thân bị cáo đã có 02 tiền án, tuy đã được xóa án tích nhưng vẫn coi là có nhân thân không tốt.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo đang mắc nhiều loại bệnh như viêm gan C mãn và tiểu đường nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 41M1 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn S phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn S 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2019 đến ngày 27/2/2019

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 41M1 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009686 ngày 03/4/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về