Bản án 263/2018/HS-PT ngày 29/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 263/2018/HS-PT NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 196/2018/HSPT ngày 11/5/2018 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2018/HSST ngày 04/04/2018 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Ngọc Minh Đ, giới tính: nam; sinh ngày 01/12/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: Số 258/83/1T5 đường Đ1, Phường Đ2, Quận Đ3, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: sinh viên; con ông Nguyễn Ngọc T và con bà Nguyễn Thu T1 (chết); hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1927.

Trú tại: Số 258/83/1T5 đường Đ1, Phường Đ2, Quận Đ3, Thành phố Hồ Chí Minh (Bà U vắng mặt tại phiên tòa).

2. Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1967.

Trú tại: Số 258/83/1T5 đường Đ1, Phường Đ2, Quận Đ3, Thành phố Hồ Chí Minh (Bà D có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc Minh Đ (sinh năm 1998) là sinh viên năm nhất của Trường Đại học Công nghiệp 4 sinh sống tại nhà số 258/83/1T5 đường Đ1, Phường Đ2, Quận Đ3, Thành phố Hồ Chí Minh cùng với bà nội là bà Nguyễn Thị U và cô ruột là bà Nguyễn Thị Ngọc D. Do cần tiền mua máy laptop và tiêu xài cá nhân nên vào lúc 12 giờ 00 ngày 15/9/2017, tại nhà số 258/83/1T5 đường Đ1, Đ đã lén lút lấy chìa khóa và chiếm đoạt một túi đựng tài sản của bà nội và cô ruột, bên trong có 04 lượng vàng SJC; 05 chỉ vàng SJC; 01 dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 1,988 chỉ; 01 mặt dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 1,348 chỉ; 01 đôi bông tai vàng 18K, trọng lượng 0,706 chỉ; 01 nhẫn vàng trơn 9999, trọng lượng 02 chỉ; 01 nhẫn vàng 9999, trọng lượng 02 chỉ. Sau khi chiếm đoạt được túi tài sản trên thì Đ bỏ vào ba lô của Đ rồi mang tới tiệm internet và lợi dụng lúc anh N (là bảo vệ của tiệm) không để ý Đ đã lẻn vào phòng ngủ của anh N rồi cất giấu ba lô trong góc phòng, sau đó Đ đi về nhà.

Về phía bà Nguyễn Thị U và bà Nguyễn Thị Ngọc D, sau khi phát hiện bị mất trộm đã đến trình báo công an. Sau khi tiếp nhận vụ việc, công an đã mời Đ lên làm việc và Đ đã khai nhận toàn bộ sự việc, đồng thời chỉ điểm nơi cất giấu tài sản để thu hồi trả lại cho bị hại.

Theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 8 thì tổng giá trị tài sản mà Đ đã chiếm đoạt là 188.898.286 đồng.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2018/HSST ngày 04-4-2018 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Nguyễn Ngọc Minh Đ 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 04/4/2018 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 06/4/2018 bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và tại phiên tòa bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện.

- Bà Nguyễn Thị Ngọc D xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích hành vi của bị cáo theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nguyễn Ngọc Minh Đ (sinh năm 1998) là sinh viên năm nhất của Trường Đại học Công nghiệp 4 sinh sống tại nhà 258/83/1T5 đường Đ1, Phường Đ2, Quận Đ3, Thành phố Hồ Chí Minh cùng với bà nội là bà Nguyễn Thị U và cô ruột là bà Nguyễn Thị Ngọc D. Do cần tiền mua máy laptop và tiêu xài cá nhân nên vào lúc 12 giờ 00 ngày 15/9/2017, tại nhà số 258/83/1T5 đường Đ1, Đ đã lén lút lấy chìa khóa và chiếm đoạt một túi đựng tài sản của bà nội và cô ruột, bên trong có 04 lượng vàng SJC; 05 chỉ vàng SJC; 01 dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 1,988 chỉ; 01 mặt dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 1,348 chỉ; 01 đôi bông tai vàng 18K, trọng lượng 0,706 chỉ; 01 nhẫn vàng trơn 9999, trọng lượng 02 chỉ; 01 nhẫn vàng 9999, trọng lượng 02 chỉ. Theo định giá thì toàn bộ số tài sản trên có tổng giá trị là 188.898.286 đồng. Sau khi chiếm đoạt được túi tài sản trên thì Đ bỏ vào ba lô của Đ rồi mang tới tiệm internet và lợi dụng lúc bảo vệ của tiệm không để ý, Đ đã lẻn vào phòng ngủ của bảo vệ và cất giấu ba lô trong góc phòng, sau đó Đ đi về nhà.

Tại công an phường thì Đ đã khai nhận toàn bộ sự việc, đồng thời chỉ điểm nơi cất giấu tài sản để thu hồi trả lại cho bị hại.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Ngày 04/4/2018, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 06/4/2018 bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ làm đơn kháng cáo là trong hạn luật định nên hợp lệ.

[3]. Xét nội dung kháng cáo: bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bà nội và cô ruột. Mặc dù hai bị hại trong vụ án này có quan hệ ruột thịt với bị cáo và chung sống với bị cáo trong một gia đình nhưng bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân thì hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo Đ có tình tiết giảm nhẹ là: tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại nên chưa gây thiệt hại; bị cáo có thái độ thật thà khai báo; ăn năn hối cải; phía bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo và bản thân bị cáo có hoàn cảnh là mẹ ruột đã chết, cha ruột có vợ khác, bị cáo phải sống với bà nội, cô ruột và tại phiên tòa phúc thẩm cô ruột cũng xin cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, mặc dù bị cáo không bổ sung được tình tiết nào mới để xem xét cho yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bị cáo Đ có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 như đã nêu ở trên, bản thân bị cáo là sinh viên của Trường Đại học Công nghiệp 4, có nơi cư trú rõ ràng và ngoài lần phạm tội này bị cáo không vi phạm pháp luật lần nào và bị hại cũng xin cho bị cáo được hưởng án treo. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, giữ nguyên mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, đồng thời tạo điều kiện cho Đ có thể tiếp tục học hành, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ và sửa bản án sơ thẩm.

[4]. Lập luận trên đây cũng là căn cứ để không chấp nhận lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ và sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Nguyễn Ngọc Minh Đ 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 263/2018/HS-PT ngày 29/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:263/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về