Bản án 26/2018/HS-ST ngày 18/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 26/2018/HS-ST NGÀY 18/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ,thành phố Đà Nẵng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2018/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/ HSST- QĐ ngày 04 tháng 5 năm 2018, đối với:

Bị cáo Hoàng  Ngọc T, sinh ngày 01/01/1991 tại Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Phường HM, quận LC, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng O và bà Mai Thị H; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam 14.12.2017 cho đến nay; có mặt. Bị Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Lê Văn L, sinh năm 1995; trú tại:  Phùng Chí K, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.

+ Ông Lâm Văn T, sinh năm 1995; trú tại: Phường PN, quận HC, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 14/12/2017, sau khi cùng nhau sử dụng ma túy xong, bị cáo Hoàng Ngọc T và Lê Văn L đến quán cà phê Relax trên đường Nguyễn CH thuộc phường HA, quận CL, thành phố Đà Nẵng để uống cà phê cùng Lâm Văn T. Một lúc sau, L nhận được điện thoại của một người tên Cảnh (chưa rõ lai lịch) rủ đến phòng trọ của Cảnh chơi và sử dụng ma túy nên L đến nhà Cảnh rồi góp tiền mua ma túy về sử dụng chung. Lâm Văn T cũng đi khỏi quán cà phê. Khi còn lại một mình, bị cáoT đến bàn bên cạnh xem đánh bài rồi hỏi những người này địa chỉ bán ma túy thì được những người này cho số điện thoại của một người tên Dũng (không rõ lai lịch).

Khoảng 17 giờ cùng ngày, L và Lâm Văn T quay lại quán để uống cà phê cùng bị cáoT. Do muốn sử dụng ma túy nên bị cáoT ra ngoài, dùng điện thoại di động sim số 0935.124.183 gọi điện cho Dũng hỏi mua 900.000đ ma túy thì được Dũng hẹn đến trước số nhà 149 Lê Đình L, Đà Nẵng để giao dịch. Bị cáoT mượn xe mô tô hiệu Airblade biển kiểm soát 43C1-704.66 của Lâm Văn T rồi rủ L đi cùng.

Bị cáo T điều khiển xe mô tô chở L đến gần điểm hẹn với Dũng thì dừng xe và để L đứng ngoài đường Lê Đình L, còn bị cáoT đi bộ vào ngõ hẻm cách đó khoảng 5 đến 7 mét gặp và đưa cho Dũng 900.000đ, Dũng đưa cho bị cáo T 01 vỏ bao thuốc lá con ngựa bên trong có chứa ma túy. Bị cáo T cầm bao thuốc lá cất vào người rồi nhờ L điều khiển xe môtô chở bị cáo T về. Trên đường đi, bị cáo T lấy gói ma túy bỏ vào người rồi vứt bao thuốc lá xuống đường. Khi cả hai đi đến cầu vượt ngã ba Huế thì bị lực lượng chức năng kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ trên người bị cáoT: 01 gói nylon màu trắng, kích thước (06 x 04)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu HA.01; số tiền 520.000đ; 01 điện thoại hiệu Mobell sim số 0935.124.183; 01 xe mô tô hiệu Airblade biển kiểm soát 43C1-704.66. Tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo T phường HM, quận LC, thu giữ: 01 bình nhựa, đầu nắp bình có 02 lỗ cắm 01 ống thủy tinh và 01 ống nhựa; 01 đầu khò.

Tại bản kết luận giám định số 689/GĐ-MT ngày 21/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng niêm phong ký hiệu HA.01 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng: 1,80 gam. Hoàn trả lại 1,43 gam và toàn bộ bao gói mẫu.

Bản cáo trạng số 14/CT-VKSCL ngày 26 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Hoàng Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo: Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Hoàng Ngọc T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Đối với Lê Văn L có hành vi chở Hoàng Ngọc T khi Tiến đang cất giấu ma túy trong người. Tuy nhiên, khi chở bị cáo T, L không biết về hành vi phạm tội của bị cáo T, do đó, không có cơ sở để xử lý đối với L nên không xem xét.

- Quá trình điều tra, bị cáo T và L khai nhận đã nhiều lần mua ma túy của những người tên Thông, Dũng và Tú. Hiện nay, cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch địa chỉ của những người này nên tách ra điều tra xử lý sau nên không đề cập đến.

- Đối với đối tượng tên Cảnh đã cùng L sử dụng ma túy, do chưa xác định được lai lịch nên tách ra xác minh, xử lý sau nên không xét.

- Đối với Lâm Văn T đã có hành vi cho bị cáo T mượn xe mô tô hiệu Airblade biển kiểm soát 43C1-704.66 để bị cáo T đi mua ma túy. Tuy nhiên, hiện nay chưa làm việc được với T nên Cơ quan điều tra tách ra đồng thời tiếp tục tạm giữ xe mô tô trên để điều tra xử lý sau là phù hợp nên đề nghị không xem xét.

- Đối với 1,43 gam mẫu HA.01 và toàn bộ bao gói mẫu còn lại sau giám định, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại Mobell đỏ- đen gắn sim số 0935.124.183 là điện thoại bị cáoT dùng để liên lạc mua ma túy. Do đó, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh và ống nhựa; 01 đầu khò là dụng cụ Tiến dùng để sử dụng ma túy, xét không có giá trị sử dụng. Do đó, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 520.000 đồng là tiền của bị cáo T, không liên quan đến vụ án, đề nghị trả lại cho bị cáo T.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Ngọc T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/12/2017, tại cầu vượt ngã ba Huế, thuộc phường HA, quận CL, thành phố Đà Nẵng, bị cáo Hoàng Ngọc T đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,80 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Hoàng Ngọc T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, trước và sau khi phạm tội bị cáo T đều nhận thức được rằng ma túy là chất gây nghiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, nhân cách con người, làm suy thoái giống nòi, là nguồn gốc dẫn đến những hoạt động tội phạm khác gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo đã nhận thức rõ được tác hại vô cùng nguy hiểm của ma tuý đối với người sử dụng nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung nhưng vì muốn có ma túy sử dụng mà bị cáo T đã bất chấp pháp luật tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng nên cần áp dụng khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự xét xử bị cáo T mức án nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung là phù hợp.

Song cũng xét, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo là quân nhân xuất ngũ; quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Mặc dù, bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù nhưng Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù để xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo.Tuy nhiên, mức án bị cáo T cần phải chấp hành không dưới 02 năm tù mới phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với Lê Văn L có hành vi chở bị cáo T khi bị cáoT đang cất giấu ma túy trong người. Tuy nhiên, khi chở bị cáo T,  L không biết về hành vi phạm tội của T, do đó không có cơ sở để xử lý đối với L nên không xét.

Quá trình điều tra, bị cáo T và L khai nhận đã nhiều lần mua ma túy của những người tên Thông, Dũng và Tú. Hiện nay, Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ của những người này nên tách ra điều tra xử lý sau là đúng pháp luật.

Đối với đối tượng tên Cảnh đã cùng L sử dụng ma túy, do chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra tách ra xác minh, xử lý sau là phù hợp.

Đối với Lâm Văn T đã có hành vi cho bị cáo T mượn xe mô tô hiệu Airblade biển kiểm soát 43C1-704.66 để bị cáoT đi mua ma túy. Tuy nhiên, hiện nay chưa làm việc được với T nên Cơ quan điều tra tách ra đồng thời tiếp tục tạm giữ xe mô tô trên để điều tra xử lý sau là phù hợp nên không đề cập xử lý.

[4]  Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- Đối với 1,43 gam mẫu HA.01 và toàn bộ bao gói mẫu còn lại sau giám định, đây là tang vật vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại Mobell đỏ đen gắn sim số 0935.124.183 là điện thoại bị cáo T dùng để liên lạc mua ma túy. Do đó, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh và ống nhựa; 01 đầu khò là dụng cụ bị cáo T dùng để sử dụng ma túy, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 520.000 đồng của  bị cáoT, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo T là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Ngọc T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 14.12.2017.

Áp dụng: Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên: - Tịch thu tiêu hủy đối với 1,43 gam mẫu HA.01 và toàn bộ bao gói mẫu còn lại sau giám định; tịch thu tiêu hủy 01 bình nhựa có gắn ống thủy tinh và ống nhựa;

01 đầu khò là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Mobell đỏ đen gắn sim số 0935.124.183.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Ngọc T số tiền 520.000đồng (Năm trăm hai mươi ngàn đồng).

Tang vật trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ và Kho bạc Nhà nước quận  Cẩm Lệ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2018 và theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 26/3/2018.

Về án phí: Bị cáo Hoàng Ngọc T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HS-ST ngày 18/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về