TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 256/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 23 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 171/2018/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc P , sinh năm: 1994 (Có mặt)
Nơi cư trú: Tổ 26, ấp B, xã Bình H, huyện C, tỉnh An Giang
2. Bị đơn: Anh Lê Thành N, sinh năm: 1995 (Vắng mặt)
Nơi cư trú: Tổ 15, ấp H, TT A, huyện C, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai cùng ngày 12/3/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc P trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc P và anh Lê Thành N kết hôn với nhau vào tháng 9 năm 2017, hôn nhân do quen biết, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn An Châu. Sau khi kết hôn chị và anh N về chung sống với cha mẹ chồng, đến đầu năm 2018 chị và anh N lên Bình Dương làm công nhân sinh sống, chị và anh N chung sống hạnh phúc được vài tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng trong cuộc sống, anh N sinh ra chơi game thường xuyên không khuyên nhủ được. Ngoài ra giữa chị và anh N còn phát sinh mâu thuẫn tiền bạc không giải quyết được, mặc dù cha mẹ hai bên đã hàn gắn. Chị và anh N ly thân nhau từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Thành N.
Về con chung, tài sản và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc P trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn Lê Thành N: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý, các thông báo về phiên họp kiểm tra về việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Lê Thành N vẫn vắng mặt các buổi phiên họp giao nộp chứng cứ và hòa giải không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của chị P. Tòa án cũng tiến hành xác minh lấy lời khai của anh N nhưng anh N vắng mặt tại nhà nên không lấy lời khai được. Qua xác minh tại địa phương thì anh N còn hộ khẩu thường trú tại tổ 15, ấp H, TT A, huyện C, An Giang.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu quan điểm cho rằng. Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, kết quả việc hỏi tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến đề nghị. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P, cho chị P ly hôn với anh N. Về con chung và tài sản, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Thành N là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Lê Thành N theo quy định pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc P và anh Lê Thành N kết hôn với nhau vào tháng 9 năm 2017, hôn nhân do quen biết, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn An Châu. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Theo chị P trình bày sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc được vài tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng trong cuộc sống, anh N sinh ra chơi game thường xuyên không khuyên nhủ được. Ngoài ra giữa chị và anh N còn phát sinh mâu thuẫn tiền bạc không giải quyết được, mặc dù cha mẹ hai bên đã hàn gắn. Chị và anh N ly thân nhau từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay, trong thời gian ly thân chị có điện thoại cho anh N nhiều lần nhưng anh N không bắt máy, không trả lời tin nhắn của chị luôn, mặc dù có liên lạc với anh N nhiều lần. Xét thấy với thời gian ngắn chung sống, khi phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai không tìm ra biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng dẫn đến vợ chồng ngày càng thêm mâu thuẫn. Trong thời gian ly thân chị P cũng tạo điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh N bỏ mặc không quan tâm. Trong thời gian giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy mời nhưng anh Nghĩa cũng không đến và cũng không có văn bản gửi cho Tòa án để có ý kiến về việc xin ly hôn của chị P. Hiện tại chị P xác định không còn tình cảm với anh N tại tòa chị vẫn cương quyết xin ly hôn. Do đó, hôn nhân của chị P và anh N không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P là hoàn toàn phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[2.2] Về con chung và tài sản và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc P trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.3] Về án phí: Do yêu cầu của Chị Nguyễn Thị Ngọc P được chấp nhận nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các điều 9, 53, 56, 58 Luật Hôn nhân gia đình 2014, các điều 28, 35, 147, 227, 228, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc P. Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc P và anh Lê Thành N
2. Về nuôi con và tài sản và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc P trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc P phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003506 ngày 29/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành.
4. Về kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Ngọc P được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/8/2018). Anh Lê Thành N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 256/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 256/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về