Bản án 25/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 35/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Phan Tấn L, sinh ngày 06 tháng 3 năm 1985 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi thường trú: M, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; Học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Tấn L1; con bà: Trần Thị H; Có vợ tên Vương Thiếu B (đã chết), có 02 người con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2011; Tiền án: Ngày 26/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Ngày 14/9/2016 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/10/2004 bị Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 (hai mươi bốn) tháng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2020 (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 24/8/2020, Phan Tấn L từ nhà ở Quận 11 đón xe Honda ôm đến cầu Nhị Thiên Đường, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tìm gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch) để mua ma túy với số tiền 800.000 đồng nhằm mục đích để sử dụng, người phụ nữ đã đưa cho L một gói nylon chứa tinh thể không màu thì L cất vào trong người rồi đón xe về nhà. Đến khoảng 17 giờ ngày 26/8/2020, L mang theo gói nylon chứa tinh thể không màu cất giữ ở túi quần nhỏ phía trước bên phải đang mặc và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vario, biển số 59M2- 492.51 sang nhà bạn gái Nguyễn Thị Tuyết L2 ở Quận 11 để chở L2 đến quán ăn số 488 Trần Hưng Đạo, Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến khoảng hơn 19 giờ 35 phút cùng ngày, sau khi ăn xong, L và L2 ra trước quán để lấy xe đi về thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 kiểm tra hành chính phát hiện trong túi nhỏ phía trước bên phải của L đang mặc có cất giấu 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, L khai là ma túy cất giấu nhằm mục đích sử dụng, nên Tổ tuần tra Công an Quận 5 bàn giao L cùng vật chứng về Công an Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản phạm tội quả tang. Qua kiểm tra, Phan Tấn L dương tính với ma túy.

Nguyễn Thị Tuyết L2 khai không biết việc L cất giấu ma túy trong người. Qua kiểm tra, L2 dương tính với ma túy. Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 5 có Quyết định đưa L2 vào cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phan Tấn L khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Tấn L và hình dấu Công an Phường 14, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2701g (một phẩy hai bảy không một gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1497/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Phan Tấn L); 01 (một) điện thoại di động ghi chữ iphone màu trắng đã qua sử dụng (đã tắt máy không kiểm tra được tình trạng bên trong); 01 (một) điện thoại di động ghi chữ Oppo màu đỏ đã qua sử dụng (đã tắt máy không kiểm tra được tình trạng bên trong); 01 (một) chiếc xe mô tô loại xe Vairio, biển số 59M2-492.51, số khung: MH1KF4113LK915935, số máy: KF41E1918132.

Tại bản Kết luận giám định số 1497/KLGĐ-H ngày 03/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Tấn L và hình dấu Công an Phường 14, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2701g (một phẩy hai bảy không một gam), loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số: 25/CTr-VKSQ5 ngày 03/2/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phan Tấn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phan Tấn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Tấn L với mức án từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù; về vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Phan Tấn L không có ý kiến bào chữa, không tranh luận và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Phan Tấn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Phan Tấn L đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng 1,2701g (một phẩy hai bảy không một gam), loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do bị cáo L có hai tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, biết việc tàng trữ trái phép các chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây nghiện và độc hại; gây mất trật tự xã hội ở địa phương, còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; nhằm mục đích giáo dục bị cáo, bên cạnh đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định, để bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[8] Đối với người phụ nữ không rõ lai lịch đã có hành vi bán ma túy cho bị cáo L, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác định được lai lịch địa chỉ khi nào bắt được sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thị Tuyết L2 không biết bị cáo L cất giữ ma túy trong người và L cũng không nói cho L2 biết, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 không xem xét xử lý đối với L2 là đúng pháp luật. Qua xét nghiệm Nguyễn Thị Tuyết L2 có sử dụng ma túy nên Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý, cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Tấn L và hình dấu Công an Phường 14, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2701g (một phẩy hai bảy không một gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1497/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Phan Tấn L). Xét đây là vật phạm pháp, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

01 (một) điện thoại di động ghi chữ iphone màu trắng đã qua sử dụng (đã tắt máy không kiểm tra được tình trạng bên trong); 01 (một) điện thoại di động ghi chữ Oppo màu đỏ đã qua sử dụng (đã tắt máy không kiểm tra được tình trạng bên trong); 01 (một) chiếc xe mô tô loại xe Vairio, biển số 59M2-492.51, số khung: MH1KF4113LK915935, số máy: KF41E1918132. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Lộc.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 53; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phan Tấn L 06 (sáu) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 8 năm 2020.

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Tấn L và hình dấu Công an Phường 14, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2701g (một phẩy hai bảy không một gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1497/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Phan Tấn L).

Trả lại cho bị cáo Phan Tấn L: 01 (một) điện thoại di động ghi chữ iphone màu trắng đã qua sử dụng (đã tắt máy không kiểm tra được tình trạng bên trong); 01 (một) điện thoại di động ghi chữ Oppo màu đỏ đã qua sử dụng (đã tắt máy không kiểm tra được tình trạng bên trong); 01 (một) chiếc xe mô tô loại xe Vairio, biển số 59M2-492.51, số khung: MH1KF4113LK915935, số máy: KF41E1918132.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Luật phí và lệ phí.

Bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về