Bản án 25/2019/HSST ngày 14/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH OAI – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 14 tháng 5 năm 2019 tại: Trụ sở Toà án Nhân Dân huyện Thanh O - TP. HN; xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 28/2019/HSST ngày 16 tháng 4 năm 2019. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019 ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đức Th, sinh ngày 25/01/2001; ĐKHK và nơi ở: Thôn Th, xã Bích H, huyện Thanh O,Tp HN; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Bố đẻ: Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1971; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1973; chưa có vợ, con. Gia đình có 03 anh em bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Danh chỉ bản số: 19/2018 do Công an huyện Thanh Oai lập ngày 20/12/2018. Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

2.Họ và tên: Lý Bá Hoàng A, Sinh ngày 12/6/2000; ĐKHK và nơi ở: Thôn Thượng Th, xã Thanh C, huyện Thanh O,Tp H N; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Bố đẻ: Lý Bá Th, sinh năm 1971; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1972; chưa có vợ, con. Gia đình có 02 anh em bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Danh chỉ bản số: 49/2019 do Công an huyện Thanh Oai lập ngày 13/02/2019. Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại :

1/ Anh Bùi Anh T, sinh ngày 11/12/2001

- Người giám hộ cho anh T: Là ông Bùi Đăng Q, sinh năm 1975 và bà Lê Thị H, sinh năm 1977; đều trú tại: Xóm Ả, thôn Thượng Th, xã Thanh C, huyện Thanh O, Tp H N. (Vắng mặt tại phiên tòa)

2/ Người giám hộ cho bị cáo Th: Ông Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1973 đều trú tại: Thôn Th, xã Bích H, huyện Thanh O, Tp HN.

(Vắng mặt tại phiên tòa)

Người bào chữa cho bị cáo: Đinh Thị Mai Ph, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp Pháp lý Nhà nước Thành phố HN, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức Th. (có mặt tại phiên tòa)

+ Người liên quan:

1/ Anh Nguyễn Bá V, sinh năm 1999

Trú tại: Thôn Thanh Th, xã Thanh C, huyện Thanh O, Tp H N

2/ Anh Nguyễn Bá Th, sinh năm 1993

Trú tại: Thôn Thượng Th, xã Thanh C, huyện Thanh O, Tp HN

+Người làm chứng:

1/ Anh Nguyễn Bá Th, sinh năm 1992

2/ Anh Nguyễn Như T, sinh năm 1997

3/ Anh Nguyễn Bá H, sinh năm 1991

Đều trú tại:Thôn Thượng Th, xã Thanh C, Thanh O, Tp H N.

4/ Anh Nguyễn Mạnh K, sinh năm 2001

Trú tại: Thôn B, xã Bích H, huyện Thanh O, Tp H N.

(Tại phiên tòa những người liên quan, những người làm chứng đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Nguyễn Đức Th, Lý Bá Hoàng A bị Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Thanh O, Thành Phố HN truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Bùi Anh T, sinh ngày 11/12/2001, trú tại thôn Thượng Th, xã Thanh C, huyện Thanh O và Nguyễn Bá V, sinh năm 1999, trú tại thôn Thanh Th, xã Thanh C, huyện Thanh O, TP H N có mối quan hệ quen biết. Sáng ngày 01/7/2018, T mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc, BKS 29X7-408.13 của V để đi chơi.

Khoảng 10 giờ ngày 01/7/2018, T điều khiển xe mô tô BKS 29X7-408.13 đến nhà Nguyễn Mạnh K, sinh ngày 21/3/2001, trú tại thôn M , xã Bích H, huyện Thanh Oai để gặp Lý Bá Hoàng A, sinh ngày 12/6/2000, trú tại xóm Ả, thôn Thượng Th , xã Thanh C, huyện Thanh O (Tuấn và Hoàng Anh có quan hệ bạn bè quen biết). Khi đến nhà K, Hoàng A giới thiệu T làm quen với K và Nguyễn Đức Th, sinh ngày 25/01/2001, trú tại thôn Th, xã Bích H , huyện Thanh O ( , Th là bạn của Hoàng A).

Khi biết T có chiếc xe mô tô BKS 29X7-408.13, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe trên, để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Nhân lúc K , Hoàng A, T nướng mực, Th hỏi mượn xe của T đi mua tương ớt. T đồng ý đưa xe cho Th. Sau đó, Th đi xe đến quán internet và lên mạng xã hội Facebook để nhờ người tìm chỗ cầm cố xe trên, đồng thời, Th cũng tự mình điều khiển xe đến nhiều chỗ để cầm cố nhưng không được. Khi thấy Th không mang xe về trả, T cùng Hoàng A đi tìm nhưng không thấy,sau đó,T, Hoàng A đi về nhà. Đến 01 giờ sáng ngày 02/7/2018, qua bạn bè, T tìm được địa chỉ Facebook của Th nên đã nhắn tin yêu cầu Th trả xe. Th nhận được tin nhắn tuy không có ý định trả xe cho T, nhưng vẫn nhắn hẹn T 10 giờ sáng ngày 02/7/2018 đến nhà K lấy xe. Sau đó, Th chặn tin nhắn của T, không cho T liên lạc với mình.

Do đến giờ hẹn nhưng không thấy Th trả xe, T gửi đơn trình báo đến Công an đồn Bình M. Thời gian này, Hoàng A vào miền Nam tìm việc làm và không biết giữa Th và T đã trả xe cho nhau chưa.

Khoảng 8 giờ ngày 08/7/2018, Th liên lạc với Hoàng A, nhờ Hoàng A tìm chỗ cầm cố xe máy. Do đang ở trong TP Hồ Chí Minh nên Hoàng A đã hẹn Th 02 ngày sau thì gặp. Đến ngày 10/7/2018, Th đến đón Hoàng A ở bến xe nước ngầm, tại khu vực huyện Thanh Tr, TP H N rồi cùng nhau đến nhà nghỉ Thanh B, ở thị trấn Kim B, huyện Thanh O để tìm người nhờ cầm cố xe máy. Tại đây, Th gặp Nguyễn Bá Th, sinh năm 1992, và Nguyễn Bá H, sinh năm 1991, cùng trú tại xóm Ả, thôn Thượng Th, xã Thanh C (bạn xã hội của Hoàng A). Tuy biết chiếc xe máy do Th đi không phải xe của Th , nhưng Hoàng A vẫn nhờ Thuỳ cầm cố hộ chiếc xe máy trên. Th hỏi xe của ai, thì Hoàng A và Th đều nói là xe của Th, nhưng không có giấy tờ. Sau khi xem xe, Th gọi điện cho Nguyễn Bá Th, sinh năm 1993, trú tại thôn Thượng Th, xã Thanh C và bảo Th cho cầm cố 01 chiếc xe máy của người quen và cam đoan xe không phải do phạm tội mà có, nên Thành đồng ý. Sau đó, Thuỳ gọi điện thoại cho Nguyễn Như T, sinh năm 1997, trú tại xóm Trại, thôn Thượng Th, xã Thanh C đến nhà nghỉ Thanh B, rồi đưa xe trên để T cùng Hoàng A mang xe đến nhà Th, cầm cố lấy 5.000.000 đồng.

Sau khi Th đưa tiền cho Tùng, do biết Th đồng ý cho Th vay 2.500.000 đồng nên T đã lấy số tiền cầm cố xe trả tiền taxi hết 100.000 đồng, mua thẻ chơi điện tử cho Th và Tùng hết 2.400.000 đồng rồi đưa lại số tiền 2.500.000 đồng cho Th. Th đưa số tiền trên cho Th, sau đó, Th và Hoàng A cùng nhau đi chơi điện tử. Th đã sử dụng toàn bộ số tiền 2.500.000 đồng để chơi điện tử, Hoàng A không được hưởng lợi gì.

Do biết T cùng bố mẹ T nhiều lần đến nhà Th đòi xe, nên ngày 27/7/2018, Th về nhà rồi liên lạc với Hoàng A hỏi chỗ cầm cố xe. Sau đó, Th cùng bố là anh Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1971 đến gặp Th và nhờ Th đưa đến nhà Nguyễn Bá Th chuộc lại xe trên với số tiền 5.500.000 đồng. Sau khi chuộc được xe, anh Ngh mang xe trên đến giao nộp cho Cơ quan Công an huyện Thanh O. Th bỏ trốn khỏi địa phương.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 59 KL/ĐGTS ngày 22/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh O kết luận: “Tại thời điểm bị xâm hại ngày 01/7/2018, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 29X7-408.13, số khung 3905HY289055, số máy JA39E0289076, có giá trị 14.000.000 đồng”.

Cáo Trạng số: 28/KSĐT ngày 04 tháng 4 năm 2018 Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Thanh O, TP H N truy tố bị cáo Nguyễn Đức Th về tội: "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Lý Bá Hoàng A về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra truy tố các bị cáo đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên toà ngày hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với vật chứng của vụ án, lời khai người bị hại, và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử; Đối với bị cáo Nguyễn Đức Th áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 91 Bộ luật hình sự phạt: bị cáo Th mức án từ 06 đến 09 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đối với bị cáo Lý Bá Hoàng A áp dụng khoản 1 Điều 323; Điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự phạt: bị cáo Lý Bá Hoàng A mức án từ 09 đến 12 tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Về hình phạt bổ sung các bị cáo đều là lao động tự do đề nghị Hội đồng miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự cũn như vật chứng vụ án: không xem xét.

- Về phần bào chữa của trợ giúp viên pháp lý nhà nước thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý thành phố HN bào chữa cho bị cáo Nguyễn ức Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện hoàn cảnh của bị cáo thời điểm phạm tội bị cáo là vị thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, tại phiên tòa bị cáo khai nhận rõ hành vi của mình được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 65; điều 91của Bộ luật hình sự. Vì vậy đề nghị HĐXX cho bị cáoTh mức hình phạt thấp được cải tạo tại địa phư ng để gia đình có điều kiện giáo dục bị cáo tr thành công có ích cho xã hội và gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quyết định tố tụng của C quan điều tra, c quan truy tố, về hành vi tố tụng của iều tra viên, Kiểm sát viên: Đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về: Khởi tố vụ án; khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; áp dụng biện pháp tạm giữ; tạm giam. Về các biện pháp điều tra như: Lấy lời khai bị can, lấy lời khai của người làm chứng; thu giữ vật chứng; về việc giao nhận các văn bản tố tụng cho bị can đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thu thập đầy đủ, đúng trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, Điều tra viên, Kiểm tra viên: Không mớm cung, ép cung, bức cung, dùng nhục hình đối với các bị can.

[1.2]. Về sự vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã có lời khai trong quá trình điều tra nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

Tại phiên toà ngày hôm nay các bị cáo Nguyễn Đức Th và Lý Bá Hoàng A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai những người bị hại, tang vật vụ án, nhân chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Quá trình điều tra, truy tố đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận. Do cần tiền để tiêu xài cá nhân, nên khoảng 11 giờ ngày 01/7/2018, tại nhà ở của Nguyễn Mạnh K tại thôn Mùi, xã Bích H, huyện Thanh O, Nguyễn Đức Th, sinh ngày 25/01/2001, đã dùng thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt chiếc xe mô tô BKS 29X7-408.13 do Bùi Anh T đang quản lý, trị giá 14.000.000 đồng. Sau đó, Th đã nhờ Lý Bá Hoàng A, sinh ngày 12/6/2000 tìm người đem cầm cố xe trên. Lý Bá Hoàng A biết rõ chiếc xe mô tô BKS 29X7-408.13 là xe do Th phạm tội mà có, nhưng vẫn tích cực nhờ Nguyễn Bá Th, Nguyễn Như T giới thiệu và được Nguyễn Bá Th nhận cầm cố xe trên với số tiền 5.000.000 đồng. Bản thân Th đã tiêu xài hết 2.500.000 đồng. Hoàng A không được hưởng lợi gì. Hành vi của Nguyễn Đức Th đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Lý Bá Hoàng A đã phạm “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân của từng bị cáo: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự có nhân thân tốt. Đối với bị cáo Th đã lợi dụng sự tin tưởng của người khác nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản đem cầm cố để lấy tiền tiêu sài cá nhân. Đối với Hoàng A mặc dù biết rõ chiếc xe máy không phải là của bị cáo Th nhưng bị cáo cũng đã tiếp tay việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có coi thường pháp luật, nên cần phải có mức hình phạt nghiêm tương sứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính chất dăn đe, giáo dục để các bị cáo có cơ hội để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết cần xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo Th được quy định tại iều 91 Bộ luật hình sự. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Về tính chất vụ án: Vụ án có tính chất nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cá nhân, được nhà nước bảo vệ, làm mất ổn định an ninh trật tự địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân.

- Trong quá trình điều tra xác định Nguyễn Bá Th, là người được Hoàng Anh và Th nhờ tìm chỗ cầm cố chiếc xe mô tô Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 29X7-408.13, đồng thời, gọi điện cho Nguyễn Bá Th thoả thuận việc cầm cố chiếc xe trên với giá 5.000.000 đồng. Nguyễn Như T, là người trực tiếp giao chiếc xe mô tô trên cho Th để nhận số tiền 5.000.000 đồng. Nguyễn Bá H là người nghe thấy việc Th, Hoàng A nhờ Th tìm người cầm cố xe. Nhưng Th, T, H đều không biết chiếc xe trên là xe do Thiệu phạm tội mà có. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

-Đối với Nguyễn Bá Th , không thừa nhận đã nhận cầm cố xe mô tô Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 29X7-408.13, mà chỉ nhận là cho Th vay tiền và nhận xe máy để làm tin. Tuy nhiên, các tài liệu điều tra có đủ cơ sở để khẳng định Thành đã nhận cầm cố chiếc xe trên. Th không biết xe trên là do phạm tội mà có. Th không kinh doanh dịch vụ cầm đồ, nên Cơ quan điều tra chỉ có công văn đề nghị Chủ tịch UBND huyện Thanh Oai ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Th theo thẩm quyền, là có căn cứ.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa các bị cáo đã xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt của ông Bùi Đăng Q (là người giám hộ cho anh T) xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị các và đã nhận số tiền 1.250.000đồng tiền sửa xe máy do bị hư hỏng nay không có đề nghị gì bồi thường đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử không xem xét.

- Các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Th phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo Lý Bá Hoàng A phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2.Về Điều luật áp dụng hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 91 Bộ Luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Th 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 18 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Bích H theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ Luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lý bá Hoàng A 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 18 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Thanh Cao theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

3.Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

4.Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH14 quy định về án án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Đức Th, Lý bá Hoàng A phải chịu 200.000đồng (hai trăm) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 14/5/2019.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 14/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về