Bản án 25/2018/DS-ST ngày 12/06/2018 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 25/2018/DS-ST NGÀY 12/06/2018 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 12 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2018/TLST-DS ngày 27 tháng 02 năm 2018, về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2018/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 5 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 32/2018/QĐST – DS ngày 28 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Tô Thị K, sinh năm 1980 (Có mặt)

Địa chỉ: ấp KIB, xã ĐY, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Q, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp ĐG, xã NT, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/8/2017, nguyên đơn bà Tô Thị K trình bày: Vào ngày 21/7/2017, chị K đi đến nhà của vợ chồng ông Nguyễn Hưu H, bà Lê Thị Th tại ấp ĐG, xã NT, huyện An Biên tỉnh Kiên Giang thì bị bà Huỳnh Thị Q người ở gần đó kiếm chuyện chửi bà bằng những lời lẽ thô tục xúc phạm đến chị, chị có trả lời qua lại thì bà Q từ nhà bà bên sông bơi xuồng qua xong vào nhà ông H dùng cây dầm bằng gỗ đánh trúng vào đầu, cổ, lưng của chị và sau đó được mọi người có mặt là ông H, bà Th can ngăn. Sau đó, chị được gia đình đưa đi điều trị thương tích tại phòng khám của dịch vụ y tế tư nhân y sỹ Dthuộc xã ĐT, huyện An Biên và Phòng khám đa khoa bác sĩ Bãnh tại huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đến nay sức khỏe đã ổn định. Vụ việc trên đã được Công an xã NT đưa ra hòa giải nhưng không thành vì bà Q nhất định không chịu bồi thường tiền thuốc, chi phí điều trị thương tích cho chị nên chị đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang buộc bà Huỳnh Thị Q bồi thường cho chị tổng số tiền là 2.800.000đ, gồm Tiền thuốc điều trị 1.100.000đ, tiền xe 300.000đ, tiền ngày công lao động bị mất 07 ngày x 200.000đ = 1.400.000đ.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Huỳnh Thị Q trình bày: Bà thừa nhận ngày hôm đó bà có cầm cây dầm qua nhà ông Th đánh chị K nhưng đánh không trúng vào người chị K nên bà không đồng ý bồi thường tiền thuốc theo yêu cầu của chị K.

Tài liệu, chứng cứ do các bên đƣơng sự cung cấp gồm:

Nguyên đơn chị K cung cấp: Toàn bộ hồ sơ Công an xã ĐT giải quyết vụ việc đánh nhau giữa bà Q với chị K, biên bản hòa giải và các chứng từ, hóa đơn toa thuốc điều trị thương tích chị K.

Tại phiên tòa các đương sự có ý kiến yêu cầu như sau:

Chị Tô Thị K chỉ yêu cầu bà Huỳnh Thị Q bồi thường tiền thuốc điều trị thương tích theo các hóa đơn toa thuốc là 980.000đ. Phần còn lại xin rút yêu cầu khởi kiện, gồm tiền xe 300.000đ, tiền ngày công lao động 1.400.000đ.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng mối quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, tổ chức hòa giải, thu thập chứng cứ đúng theo trình tự Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa sơ thẩm đúng theo trình tự Bộ luật tố tụng dân sự. Thư ký ghi biên bản phiên tòa đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Việc tuân theo pháp luật của đương sự:

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn bà Q.

Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn chị K yêu cầu bà Q bồi thường tiền điều trị thương tích 980.000đ là có căn cứ chấp nhận theo Điều 590 Bộ luật dân sự. Xét yêu cầu của nguyên đơn xin tự nguyện rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền công lao động và tiền xe là có căn cứ chấp nhận nên đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do sự việc xâm phạm sức khỏe của nguyên đơn xảy ra trên địa bàn huyện An Biên và bị đơn cư trú trên địa bàn huyện An Biên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn chị Tô Thị K khởi kiện yêu cầu bà Huỳnh Thị Q bồi thường chi phí điều trị thương tích cho chị nên quan hệ pháp luật được xác định là “ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015.

[3] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt bị đơn bà Huỳnh Thị Q.

[4] Hội đồng xét xử, xét yêu cầu khởi kiện của chị Tô Thị K yêu cầu bà Huỳnh Thị Q bồi thường tiền thuốc điều trị thương tich cho chị là có căn cứ chấp nhận. Bởi chị Tô Thị K có thiệt hại về sức khỏe sau khi bị bà Q dùng cây dầm đánh chị gây thương tích vào ngày 21/7/2017. Sau khi bị thương tích chị K đã điều tại dịch vụ y tế tư nhân của anh Dũ và phóng khám đa khoa bác sĩ Bãnh, cụ thể các chứng từ đơn thuốc kèm theo, gồm: phiếu báo thu 670.000đ phòng khám đa khoa bác sĩ Bãnh ngày 21/7/2017, đơn thuốc của dịch vụ y tế tư nhân ngày y sĩ Dũ ngày 22/7/2017 = 65.000đ, ngày 23/7/2017= 55.000đ, ngày 24/7/2017 = 55.000đ, ngày 25/7/2017 = 80.000đ, một đơn thuốc không ghi ngày tháng số tiền 55.000đ. Tổng số tiền theo toa thuốc chị K cung cấp là 980.000đ, nội dung các toa thuốc đều chuẩn đoán chị K bị chấn thương phần mềm.

Xét thấy vào ngày 21/7/2017, bà Huỳnh Thị Q dùng cây dầm bằng gỗ xong vào nhà chị Th, anh H đánh vào người của chị K: Đây là hành vi trái pháp luật của bà Q, lỗi này hoàn toàn do bà Q gây ra thể hiện là theo lời trình bày của chị K, chị Th, ông H là chị K đến nhà chị Th chơi thì bà Q chửi chị K bằng những lời lẽ thô tục và xong vào nhà chị Th dùng cây dầm bằng gỗ đánh chị K, trong quá trình Công an xã ĐT giải quyết vụ việc trên thì bà Q cũng đã thừa nhận toàn bộ hành vi đánh người của mình là sai trái và nhận sai với Công an xã. Như vậy có đủ căn cứ kết luận thương tích của chị K là do bà Q gây nên vào ngày 21/7/2017.

Tại Điều 584 Bộ luật dân sự  2015 có quy định: “ 1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Bà Q có hành vi xâm phạm sức khỏe của chị K đễn đến trị K phải điều trị nên bà phải có trách nhiệm bồi thường.

Theo Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

1.  Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập  của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

Theo các đơn thuốc mà chị K cung cấp tổng tiền thuốc điều trị thương tích là 980.000đ, đây là chi phí tiền thuốc điều trị thực tế hợp lý của chị K trong quá trình khám chữa, phục hồi sức khỏe của chị sau khi bị bà Q gây thương tích nên cần chấp nhận yêu cầu này của chị K là phù hợp với Điều 590 Bộ luật dân sự 2015.

Trong quá trình điều trị thương tích chị K có thuê xe đi điều trị thương tích và thu nhập có bị mất trong thời gian điều trị. Tuy nhiên, chị tự nguyện rút phần yêu cầu này và không cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ phần yêu cầu này của chị K.

[5] Xét ý kiến trình bày của bà Q cho rằng bà có đánh chị K bằng cây dầm bằng gỗ nhưng không gây thương tích cho chị K nên không đồng ý bồi thường là không có căn cứ như Hội đồng xét xử đã phân tích phần trên.

Từ các nhận định nêu trên, sau khi Th luận Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Tô Thị K. Buộc bà Huỳnh Thị Q bồi thường cho chị K tiền thuốc điều trị thương tích là 980.000đ.

[6] Về án phí DSST: Áp dụng Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án

Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: 300.000đ

Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí, hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp cho Ngân hàng.

Buộc bà Huỳnh Thị Q phải nộp 300.000đ.

Xét thấy, kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và phát biểu ý kiến về nội dung vụ án là đúng quy định và phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 217 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Tô Thị K.

2. Buộc bà Huỳnh Thị Q bồi thường cho chị Tô Thị K tiền thuốc điều trị thương tích với tổng số tiền là 980.000đ (chín trăm tám mươi nghìn đồng).

Đối với khoản tiền phải thi hành án nói trên, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án và Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng phải chịu lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Tô Thị K về tiền xe điều trị thương tích 300.000đ và thu nhập thực tế bị mất 1.400.000đ.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Buốc bà Huỳnh Thị Q phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo:

Án xử công khai, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đối với bà Huỳnh Thị Q vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/DS-ST ngày 12/06/2018 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm

Số hiệu:25/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về