Bản án 246/2019/DS-PT ngày 24/06/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 246/2019/DS-PT NGÀY 24/06/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 24 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa công khai giải quyết việc dân sự thụ lý số 154/2019/TLPT-DS ngày 12 tháng 3 năm 2019 về việc: “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ”.

Do có kháng cáo của nguyên đơn - ông Nguyễn Văn B đối với Bản án số 33/2018/DS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau;

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1359/2019/QĐXX-PT ngày 27 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1958 (có mặt).

Trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1956 (có mặt).

Trú tại: ấp T, xã T, H. Đ, tỉnh Cà Mau.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lê Minh Ch - Văn phòng luật sư Lê Minh Ch thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đặng Thị Ng, sinh năm 1958 (có mặt).

2. Anh Nguyễn Chí D, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Cùng cư trú tại: ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

3. Chị Nguyễn Thị L (Trúc L), sinh năm 1975 (có mặt).

Trú tại: ấp T, xã T, H. Đ, tỉnh Cà Mau

4. Anh Nguyễn Hoàng C, sinh năm 1980 (vắng mặt).

Ttrú tại: ấp T, xã T, H. Đ, tỉnh Cà Mau

5. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Nguyên đơn - ông Nguyễn Văn B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại tòa phía nguyên đơn ông Nguyễn Văn B trình bày:

Ông B xác định phần đất của ông được cha mẹ cho ông vào năm 1979. Đến năm 1982 khi Nhà nước thực hiện trang trải đất đai thì mẹ ông là bà Đoàn Thị H1 (mất ngày 20/02/2017 âm lịch) có kêu ông giao phần đất (phần đất đang tranh chấp hiện nay) cho ông Nguyễn Thái H mượn để canh tác, còn ông thì đứng ra quản lý một phần đất khác dùm cho các anh chị em của ông, vì tại thời điểm đó mỗi người không được đứng tên quyền sử dụng đất quá hạn điền, mẹ ông sợ Nhà nước trang trải mất đất của gia đình nên mới kêu các anh em ông thỏa thuận như vậy. Thực tế thì phần đất ông đứng tên (khoảng hơn 20 công) đã chia hết cho 03 người em của ông là Nguyễn Tuyết L1, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn M vào năm 1987 và hiện nay họ đã làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi (Giấy CNQSDĐ). Còn phần đất ông cho ông H mượn, thì năm 1987 mẹ ông có đòi lại cho ông nhưng ông H không chịu trả. Đến năm 1995 ông H làm thủ tục cấp Giấy CNQSDĐ nhưng ông không hay biết, vì ông đã bận đi buôn bán, sau đó ông có nghe anh ba của ông là Nguyễn Văn Bé Nh nói lại cho ông biết là ông H đã làm bằng khoán bao trùm cả phần đất của ông, lúc đó ông không có đòi đất lại, vì thân tộc có họp lại và thỏa thuận cho ông H tiếp tục mượn thêm 10 năm nữa sẽ trả lại cho ông nhưng không có lập biên bản mà chỉ nói miệng. Đến năm 2005, ông gặp mẹ ông yêu cầu mẹ ông lấy lại phần đất này thì mẹ ông nói ông H đang khó khăn nên cho mượn thêm một thời gian nữa, đến năm 2016 thì phát sinh tranh chấp. Trước đây tại đơn khởi kiện và khởi kiện bổ sung ngày 27/3/2017, ông yêu cầu khởi kiện ông H với các nội dung:

Buộc ông H trả lại phần đất theo đo đạc thực tế là 13.111,5m2; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông H; yêu cầu ông H phải hoàn trả cho ông số tiền 600.000.000 đồng là tiền mà trong thời gian qua ông H đã hưởng hoa lợi, lợi tức, cụ thể như sau:

* Thời kỳ làm nông nghiệp:

- 01 vụ sau cùng thu hoạch 01 công = 20 giạ x 06 công = 120 giạ x 12 năm (từ năm 1982 đến năm 1994) x 100.000 đồng/giạ = 144.000.000 đồng.

- 01 công lá dừa nước lợp nhà, mỗi năm 01 công này bán được 1.000.000 đồng x thời gian 35 năm = 35.000.000 đồng.

- 02 công đước khoảng 1000 cây đước:

+ 200 cây làm cột nhà, mỗi cây 100.000 đồng = 20.000.000 đồng (200 cây x 100.000 đồng/cây)

+ 300 cây kèo, mỗi cây 50.000 đồng = 15.000.000 đồng (300 cây x 50.000 đồng/cây).

+ 500 cây đòn tay và văn vách, mỗi cây 20.000 đồng = 10.000.000 đồng (500 cây x 20.000 đồng/cây)

* Thời kỳ chuyển dịch nuôi tôm vào năm 1994: 06 công tầm lớn từ năm 1994 đến năm 2017 là 23 năm, thu nhập tôm, cua, cá mỗi tháng 4.000.000 đồng x 276 tháng (23 năm = 1.104.000.000 đồng).

Tổng cộng: 1.328.000.000 đồng.

Đối trừ tiền cải tạo, giữ gìn, tôn tạo của ông H là 728.000.000 đồng, còn lại 600.000.000 đồng.

- Bị đơn ông Nguyễn Thái H trình bày: Tại bản tự khai, hòa giải, các tài liệu có trong hồ sơ, ông H cho rằng, cha mẹ ông có 02 phần đất. Sau khi cha ông chết năm 1979, thì năm 1980 mẹ ông có kêu các anh em ông đến để chia đất cho ông Nguyễn Văn Bé L 10 công tầm lớn nhưng thực tế là 25.370m2, ông Nguyễn Văn Bé Nh 10.493m2, phần đất còn lại là chia cho ông 25.809m2. Sau khi chia đất ông sử dụng đất và ông đã đăng ký được cấp Giấy CNQSDĐ vào năm 1995, nhưng có sai sót về chữ lót nên ông làm thủ tục và được cấp lại vào năm 2004.

Ông H cũng cho rằng, trước đây mẹ ông có chia cho ông B, bà L1, ông Đ, ông M một phần đất có diện tích 30.535m2 nhưng không biết sau này mẹ ông phân chia lại như thế nào mà ông B không còn đất. Còn nguyên nhân ông quản lý đất nhiều là do đất của ông phía ngoài nước mặn không sản xuất được. Đất ông đứng tên trong Giấy CNQSDĐ là do cha mẹ để lại nên đây là tài sản riêng của ông. Trước đây ông H có thế chấp Giấy CNQDĐ để vay tiền ngân hàng A chi nhánh Đ, nhưng ông đã thanh toán xong và không còn nợ Ngân hàng. Hiện nay vợ chồng ông H - bà Ng và 03 người con cùng đang ở trên phần đất này là Nguyễn Trúc L (Thị L) (có nhà riêng), Nguyễn Hoàng C (có nhà riêng), Nguyễn Chí D (ở chung với vợ chồng ông H). Trước các yêu cầu của ông B thì ông H có ý kiến là không đồng ý với toàn bộ yêu cầu của ông B.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Quá trình giải quyết vụ án, bà Đặng Thị Ng trình bày.

Bà thống nhất với trình bày của ông H và bổ sung như sau: Phần đất này không canh tác được từ năm 1978 đến năm 1984 do nước mặn nên không thể nuôi trồng được gì, việc ông B trình bày cho rằng vợ chồng ông bà thu lợi nhuận nhiều như tại đơn khởi kiện bổ sung là không đúng. Từ năm 2007 mới sản xuất được, bình quân thu hoạch được 01 đến 02 triệu/tháng.

- Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Chí D trình bày.

Anh thống nhất với lời trình bày của cha mẹ anh. Đây là đất của cha mẹ anh, hiện anh đang ở chung nhà với cha mẹ anh nên mọi quyền quyết định là của cha mẹ anh. Tại biên bản làm việc ngày 24/7/2018, anh D xin vắng mặt toàn bộ từ hòa giải đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

- Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Hoàng C trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của cha mẹ anh là ông H, bà Ng. Cha mẹ anh cho anh phần đất để cất nhà ở vào năm 2000 (cất nhà lá), đến năm 2016 thì cất nhà cơ bản nằm trong phần đất tranh chấp nhưng chưa tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên mọi quyền quyết định đều thuộc về cha mẹ anh.

- Quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị L trình bày:

Chị thống nhất với trình bày của cha mẹ chị, cha mẹ chị có cho chị phần đất để cất nhà ở từ năm 1998 (do Nhà nước hỗ trợ diện hộ nghèo), trên đất có nuôi cua, trồng cây, kích thước 20m x 100m nhưng chưa tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên mọi quyền quyết định đều thuộc về cha mẹ chị.

- Ủy ban nhân dân huyện Đ trình bày:

Vào ngày 18.9.2018 Ủy ban nhân dân huyện Đ có văn bản xin không tham gia hòa giải, xét xử vụ án, xin vắng mặt tại các buổi làm việc cũng như tất cả các phiên tòa xét xử vụ án các cấp đối với vụ án. Đối với yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ Ủy ban nhân dân huyện Đ không có ý kiến gì.

Tại Bản án sơ thẩm số 33/2018/DS-ST ngày 16/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B đối với ông Nguyễn Thái H về các yêu cầu:

- Về đòi ông Nguyễn Thái H trả lại diện tích đất theo đo đạc thực tế 13.111,5m2, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. Có tứ cận như sau:

+ Phía Đông: Từ M5, M6, M7, M8, M9, M10 cạnh dài 90,78 m giáp Sông T;

+ Phía Tây: Từ M16, M17, M18 cạnh dài 134,34 mét, giáp đất ông Nguyễn Văn M;

+ Phía Nam: Từ M10, M11, M12, M13, M14, M15, M16 cạnh dài 135,06 mét, giáp sông T;

+ Phía Bắc: Từ M5, M18 cạnh dài 114,54 mét, giáp đất còn lại của ông Nguyễn Thái H.

(Kèm theo bản vẽ ngày ký phát hành ngày 02/3/2017)

- Về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp (cấp lại) vào ngày 13/7/2015 cho ông Nguyễn Thái H, ký hiệu BX 819567 diện tích 24.809 m2 đất tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện Đ tỉnh Cà Mau.

- Về đòi ông Nguyễn Thái H hoàn trả 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng) tiền hoa lợi lợi tức.

2. Giữ y phần đất tranh chấp cho ông Nguyễn Thái H sử dụng theo đo đạc thực tế là 13.111,5m2 (nằm trong tổng diện tích Ủy ban nhân dân huyện Đ đã cấp cho ông Nguyễn Thái H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 13.7.2015, ký hiệu BX 819567 với tổng diện tích 24.809 m2), đất tọa lạc tại ấp T, xã T, huyẹn Đ tỉnh Cà Mau.

3. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn B phải chịu 20.660.000 đồng (gồm đo đạc và định giá) (đã nộp xong).

Quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 29/10/2018, ông Nguyễn Văn B làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

*Tại phiên họp hôm nay, ông B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, hai bên không tự thương lượng, hòa giải được nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: Ông Nguyễn Văn B kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không xuất trình được chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình, không có căn cứ để nói rằng dịch tích 13.111,5m2 đất ông H được cấp Giấy CNQSDD là đất mượn của ông B. Chứng cứ cho thấy ông H đã sử dụng diện tích đất trên từ những năm 1980, quá trình quản lý sử dụng ông H đã đăng ký kê khai và thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước nên việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy CNQSDĐ cho ông H là đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông B, giữ y án sơ thẩm.

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư cho rằng, bị đơn đã trực tiếp quản lý sử dụng và đăng ký kê khai theo đúng quy định, không có chứng cứ để nói rằng ông H mượn đất của ông B, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông B, giữ y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của các bên đương sự, quan điểm đại diện Viện Kiểm Sát. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Nguyễn Văn B là có căn cứ bởi các lẽ sau:

[1] Xét về nguồn gốc đất: Trước hết khẳng định không có căn cứ để cho rằng 13.111,5m2 đất là của ông B cho ông H mượn canh tác. Diện tích 24.809 m2 đất mà ông Nguyễn Thái H được Ủy ban nhân dân huyện Đ tỉnh Cà Mau cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc của cha mẹ cho từ năm 1980. Ông H là người trực tiếp quản lý sử dụng, diện tích đất này trước đây đưa vào Tập đoàn sản xuất, sau khi Tập đoàn giải thể ông H là người nhận lại đất quản lý kê khai và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995 và cấp lại 2015. Do đó, việc Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là đúng đối tượng, cấp cho người đang trực tiếp quản lý sử dụng. Vì vậy, việc Ông B yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông H là không có căn cứ, nên không được chấp nhận.

[2] Đối với diện tích 13.111,5m2 đất đang tranh chấp: Xét thấy, ông B cho rằng ông H mượn diện tích đất trên nhưng ông B không đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Bản thân ông B không trực tiếp quản lý diện tích đất trên. Trong khi đó, gia đình ông H đã quản lý sử dụng ổn định liên tục 34 năm. Năm 1995, ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông H xây dựng nhà kiên cố và cho 2 con xây nhà trên đất. Bản thân ông B không có khiếu nại gì, ông B không chứng minh được cho ông H mượn đất. Do đó, việc yêu cầu ông H trả lại 13.111,5m2 đất là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[3] Đối với yêu cầu trả lại hoa lợi trên đất: như đã phân tích ở trên không có căn cứ để cho thấy ông H mượn đất của ông B nên việc ông B đòi ông H trả hoa lợi trên đất là không có căn cứ, bác yêu cầu của ông B là đúng.

Từ những phân tích trên, bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn B. Giữ y án sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn B được miễn nộp tiền án phí phúc thẩm.

Tòa án sơ thẩm cần rút kinh nghiệm, khi đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B về việc đòi ông H trả 13.111,5 m2 đất nhưng ở phần tuyên án lại tuyên giữ y phần đất tranh chấp cho ông Nguyễn Văn Hòa theo đo đạc thực tế là 13.111.5m2 tuyên như vậy là thừa. Vì diện tích đất trên nằm trong tổng diện tích 24.809m2 mà ông H đã được cấp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ông Nguyễn Văn B. Giữ y án sơ thẩm số 33/2018/DS-ST ngày 16/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Căn cứ vào các Điều 26, 34, 37, 91, 144, 147, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 166 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B đối với ông Nguyễn Thái H về các yêu cầu:

- Về đòi ông Nguyễn Thái H trả lại diện tích đất theo đo đạc thực tế 13.11,5m2, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

(Kèm theo bản vẽ ngày ký phát hành ngày 02/3/2017)

- Về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp (cấp lại) vào ngày 13/7/2015 cho ông Nguyễn Thái H, ký hiệu BX 819567 diện tích 24.809 m2 đất tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện Đ tỉnh Cà Mau.

- Về đòi ông Nguyễn Thái H hoàn trả 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng) tiền hoa lợi lợi tức.

2. Ông Nguyễn Văn B phải chịu 20.660.000 đồng (gồm đo đạc và định giá) (đã nộp xong).

3. Về án phí: Ông Nguyễn Văn B được miễn nộp tiền án phí phúc thẩm.

Các nội dung khác của quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 246/2019/DS-PT ngày 24/06/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:246/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về