Bản án 242/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH B

BẢN ÁN 242/2020/HS-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 242/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 256/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lê Tất X, sinh năm 1993 tại: T; thường trú: Thôn 8, xã T, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Lê Tất D, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Hoàng Thị N, sinh năm 1954; bị cáo có vợ tên Hà Thị H, sinh năm 1988 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 22-8-2020, có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, sau đó ra Lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Quyết định tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã T từ ngày 22-8-2020 đến ngày 31-8-2020 thì bị khởi tố bị can và chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Đàm Duy H, sinh năm 1980 tại: L; thường trú: khu phố 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh L; tạm trú: khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Cắt tóc; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt N; con ông Đàm Văn P, sinh năm 1957 và bà Đoàn Thị Kim S, sinh năm 1958; bị cáo có vợ tên Tô Thị Kim T, sinh năm 1992 và có 03 người con, người con lớn nhất sinh năm 2009, người con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22-8-2020 cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đàm Dy Đ, sinh năm 1985; địa chỉ: khu phố 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh L, vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn 13, xã Mỹ B, huyện Y, tỉnh T, vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Lê Trọng N, ông Trương Văn L, ông Nguyễn Văn T, ông Phạm Ngọc T, ông Huỳnh Tuấn V, ông Đỗ Quốc A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội Dng vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Tất X, Đàm Duy H và Lê Trọng N đều là đối tượng nghiện ma túy, H sử dụng ma túy từ năm 2014, X và N sử dụng ma túy từ năm 2019, loại ma túy mà X, H và N sử dụng là Heroine. Ngày 13-8-2020, X thuê phòng 104 Nhà nghỉ Hoàng L thuộc tổ 2, khu phố H, phường L, thị xã T, tỉnh B để ở và để cất giấu ma túy bán lại cho các đối tượng nghiện.

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 22-8-2020, X điều khiển mô tô hiệu Wave biển số 52M9 – 7043 đi từ phòng 104 nhà nghỉ H đến khu vực gần cầu Phú Cường thuộc xã Bình Mỹ, huyện C, thành phố H để tìm gặp D (không rõ nhân thân địa chỉ) là người thường bán ma túy cho X để mua ma túy mang về bán lại cho các đối tượng nghiện. Khi đi đến khu vực chân cầu P thì X gặp D, sau đó X hỏi mua 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) Heroin thì D đồng ý. D đưa cho X 05 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng rồi X đưa cho D 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau đó, X điều khiển xe mô tô đi về phòng 104 nhà nghỉ H. Khi về đến phòng 104 nhà nghỉ H, X lấy 02 đoạn ống nhựt hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng mua của D ra phân nhỏ làm đôi rồi bỏ vào 04 đoạn ống hút và hàn kín hai đầu. Sau đó, X gộp 04 đoạn ống hút chứa ma túy này vào chung với 03 đoạn hút chứa ma túy còn lại (tổng cộng là 07 đoạn ống hút chứa ma túy) rồi cất vào vỏ bao thuốc lá hiệu Jet để bán cho các đối tượng nghiện. X đã bán ma túy cho Đàm Duy H và Lê Trọng N cụ thể như sau:

1. Lần thứ nhất:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 22-8-2020, Đàm Duy H điện thoại cho X hỏi mua 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) ma túy thì X đồng ý và hẹn đến khu vực gần Trường tiểu học A thuộc phường T, thị xã T, tỉnh B để giao ma túy và nhận tiền. Sau khi điện thoại cho X, H điều khiển xe mô tô hiệu Attila biển số 49G1 – 576.14 đến khu vực Trường tiểu học A để gặp X còn X điều khiển xe mô tô hiệu Wave biển số 52M9 – 7043 từ Nhà nghỉ H đến nơi đã hẹn để gặp H bán ma túy. Tại đây, X đưa cho H 02 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa Heroin rồi lấy 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) của H. Sau đó, X khiển mô tô đi về nhà nghỉ H còn H thì cất số ma túy vừa mua của X vào gói thuốc lá màu vàng rồi điều khiển xe mô tô đi về hướng thành phố T, tỉnh B tìm nơi sử dụng ma túy. Khi H đang điều khiển xe lưu thông trên đoạn đường ĐT746 thuộc phường T, thị xã T thì gặp lực lượng tuần tra Công an phường T phát hiện nghi vấn nên yêu cầu H dừng xe để kiểm tra hành chính. Khi đang kiểm tra, H mở cốp xe mô tô hiệu Attila biển số 49G1 – 576.14 ra lấy vỏ bao thuốc lá màu vàng bên trong đựng 02 đoạn ống hút hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng giao nộp cho lực lượng tuần tra. H khai chất bột màu trắng bên trong hai đoạn ống hút là Heroine vừa mua của X và đang trên đường tìm nơi sử dụng thì bị kiểm tra. Công an phường T tiến hành niêm phong hai đoạn ống hút do H giao nộp rồi đưa H về trụ sở Công an phường T, thị xã T, tỉnh B để làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H và thu giữ vật chứng có liên quan gồm:

- 01 vỏ bao thuốc lá màu vàng bên trong đựng 02 đoạn ống hút hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng;

- 01 xe mô tô hiệu Attila màu trắng biển số 49G1 – 576.14;

- 01 điện thoại di động hiệu mobell màu đen có sim số 0369.494.494.

2. Lần thứ hai:

Khoảng 12 giờ ngày 22-8-2020, Lê Trọng N điện thoại cho X hỏi mua 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) ma túy thì X đồng ý và hẹn đến khu vực gần Trạm y tế phường T thuộc phường Tân T, thị xã T, tỉnh B để giao ma túy và nhận tiền. Sau khi điện thoại cho X, N điều khiển xe mô tô hiệu Citi 100 biển số 22K3 – 3777 từ xã T, huyện Bắc T đến khu vực Trạm y tế phường Tân Vĩnh Hiệp T để gặp X còn X điều khiển mô tô hiệu Wave biển số 52M9 – 7043 từ Nhà nghỉ H đến nơi đã hẹn để gặp N bán ma túy. Tại đây, X đưa cho N 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa Heroin rồi lấy 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) của N. Sau đó, X khiển mô tô chạy về nhà nghỉ H, còn N thì cầm đoạn ống hút nhựa bên trong có chứa ma túy trên tay trái và dùng chân đạp máy xe mô tô biển số 22K3 – 3777 để đi về nhà nhưng máy xe không nổ. Khi N đang đạp máy xe thì gặp lực lượng tuần tra Công an phường T phát hiện N có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra hành chính. Lúc này, N giao nộp 01 đoạn ống hút hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất chất bột màu trắng đang cầm trên tay giao nộp cho lực lượng tuần tra. N khai chất bột màu trắng bên trong đoạn ống hút là Heroine vừa mua của X. Công an phường T tiến hành niêm phong một đoạn ống hút do N giao nộp rồi đưa N về trụ sở Công an phường T, thị xã T, tỉnh B để làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N và thu giữ vật chứng có liên quan gồm:

- 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng;

- 01 xe mô tô hiệu Citi 100 màu nâu biển số 22K3 – 3777, số máy CT100E1039936, số khung CT100F1039963;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu vàng đồng bị nứt màn hình sim số 0936.012.276;

Sau đó, Công an phường T lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao H, N cùng hồ sơ và vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Trên cơ sở lời khai ban đầu của H, N cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiến hành ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh khám xét khẩn cấp phòng 104 Nhà nghỉ H thuộc tổ 2, khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh B của X thuê để ở và thu giữ:

- 04 đoạn ống hút nhựa hàn kín bên trong có chứa chất bột màu trắng;

- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet;

- 01 cái dao lam;

- 01 đoạn ống hút màu trắng rỗng hai đầu;

Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiến hành thu giữ của Lê Tất X:

- 01 điện thoại di động hiệu Sam sung có sim số 0373166369;

- 01 xe mô tô hiệu Wave biển số 52M9 – 7043; số máy VDG1P39FMB3001990; số khung VDGEG013DG001990;

- Số tiền 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng).

Tại Bản kết luận giám định số 538/MT-PC09 ngày 25/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 04 (Bốn) đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu thu giữ của Lê Tất X là ma túy, có khối lượng 0,3878 gam loại Heroine.

Tại Bản kết luận giám định số 537/MT-PC09 ngày 26-8-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 (Một) đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu thu giữ của Lê Trọng N là ma túy, có khối lượng 0,0930 gam loại Heroine.

Tại Bản kết luận giám định số 539/MT-PC09 ngày 27-8-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 (Hai) đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu thu giữ của Đàm Duy H là ma túy, có khối lượng 0,1548 gam loại Heroine.

Ngoài ra, Lê Tất X còn khai nhận từ ngày 13-8-2020 đến ngày 22-8- 2020 đã nhiều lần bán ma túy cho Trương Văn L, Nguyễn Văn T, Phạm Ngọc T, cụ thể:

- Ngày 20-8-2020, tại khu vực gần trạm y tế phường T thuộc phường T, thị xã T X bán ma túy cho Trương Văn L 01 lần với giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Ngày 20-8-2020, tại khu vực gần cầu T thuộc phường T, thị xã T X bán ma túy cho Nguyễn Văn T 01 lần với giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Từ ngày 13-8-2020 đến ngày 20-8-2020, tại khu vực gần Trường tiểu học A thuộc phường T, thị xã T X bán ma túy cho Phạm Ngọc T 06 lần với giá từ 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) đến 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Xe mô tô hiệu Attila biển số 49G1 – 576.14 do ông Đàm Duy Đ đứng tên đăng ký chủ ở hữu. Ông Đ là em ruột của Đàm Duy H. Tháng 4-2020, ông Đ cho H mượn xe mô tô này để sử dụng làm phương tiện đi làm; việc H sử dụng xe để làm phương tiện đi mua bán ma túy ông Đ không biết. Ngày 03-11-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ra Quyết định xử lý vật chứng số 130 trả xe mô tô này cho ông Đ.

Xe mô tô hiệu Citi 100 màu nâu biển số 22K3 – 3777, số máy CT100E1039936, số khung CT100F1039963. Biển số xe 22K3 – 3777 do ông Nguyễn Văn Vinh đăng ký đối với xe mô tô hiệu WARLIKE có số máy S152FMH – WL*00001065*, số khung RNDWCH1ND61A01065.Tháng 9/2007, ông Vinh bán xe này cho ông L (không rõ địa chỉ) ở khu vực phường D, thành phố D, tỉnh B với giá 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Lê Trọng N khai mua xe này của T (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng), khi mua không có làm giấy mua bán và không có Giấy chứng nhận đăng ký xe. Kết quả tra cứu tại phòng Cảnh sát giao thông đường bộ Công an tỉnh B xác định xe Citi 100 màu nâu, số máy CT100E1039936, số khung CT100F1039963 không tìm thấy dữ liệu đối với xe mô tô có số máy, số khung như trên. Kết luận giám định số 664/SKSM – PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Xe Citi 100 màu nâu có số máy CT100E1039936, số khung CT100F1039963 không đổi, không phát hiện cắt hàn, đục sửa.

Xe mô tô hiệu 01(Một) xe mô tô hiệu Wave biển số 52M9 – 7043; số máy VDG1P39FMB3001990; số khung VDGEG013DG001990. Bị cáo X khai mua xe này của người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ với giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), khi mua không có làm giấy mua bán và không có Giấy chứng nhận đăng ký xe. Kết quả tra cứu tại Công an thị xã T, tỉnh B xác định: không tìm thấy dữ liệu đối với xe mô tô có số máy, số khung và biển số.

Cáo trạng số 242/CT-VKSTU ngày 17-11-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh B đã truy tố bị cáo Lê Tất X về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố Đàm Duy H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Lê Tất X từ 08 đến 09 năm tù.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Đàm Duy H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định là 0,0650 gam được niêm phong, ký hiệu 537/PC09 ngày 26/8/2020; 0,3502 gam được niêm phong, ký hiệu 538/PC09 ngày 25/8/2020 và 0,1252 gam được niêm phong, ký hiệu 539/PC09 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, là vật chứng và chất cấm.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 52M9 – 7043; số máy VDG1P39FMB3001990; số khung VDGEG013DG001990. Bị cáo X khai mua xe này của người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ với giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), khi mua không có làm giấy mua bán và không có Giấy chứng nhận đăng ký xe. Kết quả tra cứu tại Công an thị xã T, tỉnh B xác định: không tìm thấy dữ liệu đối với xe mô tô có số máy, số khung và biển số.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước xe môtô nhãn hiệu Citi100 màu nâu biển số 22K3-3777, số khung CT100F1039936, số máy CT100E1039936; qua tra cứu tại Phòng cảnh sát giao thông đường bộ Công an tỉnh B xác định không tìm thấy dữ liệu đối với xe mô tô có số máy, số khung như trên. Kết quả giám định kết luận số máy, số khung không đổi, không phát hiện cắt hàn, đục sửa. Lê Trọng N sử dụng xe này làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 6s màu vàng đồng thu giữ của Lê Trọng N; 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng thu giữ của bị cáo Lê Tất X; 01 điện thoại di động mobell màu đen thu giữ của bị cáo Đàm Duy H là phương tiện các bị cáo và Lê Trọng N liên lạc để trao đổi, mua bán ma túy.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá JET, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 đoạnống hút màu trắng hồng; 01 cái dao lam Crow là công cụ tàng trữ, sử dụng ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 900.000 đồng thu giữ của bị cáo X là tiền do bán ma túy mà có. Tại phiên tòa, bị cáo Lê Tất X khai nhận số tiền thu lợi từ việc bán ma túy là 3.500.000 đồng, do đó cần buộc bị cáo phải nộp tiếp số tiền 2.600.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa các bị cáo Lê Tất X, Đàm Duy H đã khai nhận hành vi phạm tội như nội Dng Cáo trạng đã truy tố.

Các bị cáo không trình bày lời bào chữa.

Nói lời sau cùng: Các bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội Dng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Tất X, Đàm Duy H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Từ ngày 13-8-2020 đến ngày 22-8-2020 tại khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh B, bị cáo Lê Tất X có hành vi nhiều lần bán trái phép chất ma túy loại Heroine cho Đàm Duy H, Lê Trọng N, Trương Văn L, Nguyễn Văn T, Phạm Ngọc T để thu lợi bất chính với số tiền là 3.500.000 đồng.

Ngày 22-8-2020, tại khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh B, bị cáo Đàm Duy H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1548 gam với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Do đó, hành vi của bị cáo Lê Tất X đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; hành vi của bị cáo Đàm Duy H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, xâm phạm đến trật tự công cộng tại địa phương nơi các bị cáo gây án. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi và để thõa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hiện nay, tình hình mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp nhân dân, tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội, đối với các bị cáo cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà mỗi bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét căn cứ tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[7] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi mà mỗi bị cáo đã thực hiện.

[8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T, Phạm Ngọc T, Trương Văn L, ngày 22/9/2020 Công an thị xã T ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp. Đối với hành vi tàng trữ 0,0930 gam ma túy loại Heroin của Lê Trọng N ngày 22/8/2020, do chưa đủ định lượng nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T không khởi tố, xử lý là có căn cứ.

[9] Đối với đối tượng tên D đã bán ma túy cho bị cáo Lê Tất X ngày 22/8/2020 tại khu vực cầu P, xã B, huyện C, thành phố H do chưa xác định được nhân thân, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý là phù hợp.

[10] Đối với xe mô tô hiệu Attila biển số 49G1 – 576.14 do ông Đàm Duy Đ (sinh năm 1985, HKTT: khu phố 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh L) đứng tên đăng ký chủ ở hữu. Ông Đ là em ruột của bị cáo Đàm Duy H. Tháng 4-2020, ông Đ cho H mượn xe mô tô này để sử dụng làm phương tiện đi làm; việc H sử dụng xe để làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng thì ông Đ không biết. Ngày 03- 11-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ra Quyết định xử lý vật chứng số 130 trả xe mô tô này cho ông Đ, là phù hợp.

[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với lượng ma túy còn lại sau giám định là 0,0650 gam được niêm phong, ký hiệu 537/PC09 ngày 26/8/2020; 0,3502 gam được niêm phong, ký hiệu 538/PC09 ngày 25/8/2020 và 0,1252 gam được niêm phong, ký hiệu 539/PC09 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B là vật chứng và chất cấm nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 52M9 – 7043; số máy VDG1P39FMB3001990; số khung VDGEG013DG001990. Bị cáo X khai mua xe này của người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ với giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), khi mua không có làm giấy mua bán và không có Giấy chứng nhận đăng ký xe. Kết quả tra cứu tại Công an thị xã T, tỉnh B xác định: không tìm thấy dữ liệu đối với xe mô tô có số máy, số khung và biển số nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với xe môtô nhãn hiệu Citi100 màu nâu biển số 22K3-3777, số khung CT100F1039936, số máy CT100E1039936; qua tra cứu tại Phòng cảnh sát giao thông đường bộ Công an tỉnh B xác định không tìm thấy dữ liệu đối với xe mô tô có số máy, số khung như trên. Kết quả giám định kết luận số máy, số khung không đổi, không phát hiện cắt hàn, đục sửa. Lê Trọng N sử dụng xe này làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6s màu vàng đồng thu giữ của Lê Trọng N; 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng thu giữ của bị cáo Lê Tất X; 01 điện thoại di động mobell màu đen thu giữ của bị cáo Đàm Duy H là phương tiện các bị cáo và Lê Trọng N liên lạc để trao đổi, mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 vỏ bao thuốc lá JET, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 đoạnống hút màu trắng hồng; 01 cái dao lam Crow là công cụ tàng trữ, sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 900.000 đồng thu giữ của bị cáo X là tiền do bán ma túy mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước. Tại phiên tòa, bị cáo Lê Tất X khai nhận số tiền thu lợi từ việc bán ma túy là 3.500.000 đồng, do đó buộc bị cáo phải nộp tiếp số tiền 2.600.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

[12] Về án phí: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Tất X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Đàm Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Lê Tất X 08 (Tám) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày 22/08/2020.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Đàm Duy H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/08/2020.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định là 0,0650 gam được niêm phong, ký hiệu 537/PC09 ngày 26/8/2020; 0,3502 gam được niêm phong, ký hiệu 538/PC09 ngày 25/8/2020 và 0,1252 gam được niêm phong, ký hiệu 539/PC09 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước xe mô tô hiệu Wave màu đỏ biển số 52M9 – 7043; số máy VDG1P39FMB3001990; số khung VDGEG013DG001990, xe không bửng, không mặt nạt, không kính cH hậu, không kiểm tra máy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước xe môtô nhãn hiệu Citi100 màu nâu biển số 22K3-3777, số khung CT100F1039936, số máy CT100E1039936; xe không bửng, không ốp bên trái, không mặt nạ, không hộp xích, không kính cH hậu, không kiểm tra máy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nướ 01 điện thoại di động Iphone 6s màu vàng đồng, model A1633FCCID BCG E2946A IC 579C E2946A bị nứt màn hình, sim số 0936012276, không mở được nguồn, không kiểm tra máy; 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng sim số 0373166369 số Imei 1: 351816/10/2107006/1, không mở được nguồn, không kiểm tra máy; 01 điện thoại di động mobell màu đen sim số 0369494494, số Imei 1: 810033600880178, không mở được nguồn, không kiểm tra máy.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá JET, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; 01 đoạnống hút màu trắng hồng; 01 cái dao lam Crow.

- Sung quỹ Nhà nước số tiền 900.000 đồng theo ủy nhiệm chi ngày 18/11/2020.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh B).

Buộc bị cáo Lê Tất X phải nộp số tiền 2.600.000 đồng thu lợi bất chính để sung quỹ Nhà nước.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lê Tất X, Đàm Duy H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:242/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về