Bản án 24/2021/HS-ST ngày 27/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2021/HSST-QĐ ngày 13/5/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn G, sinh ngày 13/6/1989; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn An P, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Bố đẻ: Nguyễn Văn L, sinh năm 1964 (Đã chết) Mẹ đẻ: Đỗ Thị Luyến, sinh năm 1968; Vợ: Nguyễn Thị Tú L, sinh năm 1992 (Đã ly hôn năm 2016); Con: Bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013); Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ 1; Tiền án, tiền sự: Chưa; Nhân thân: Năm 2012 bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Giang Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”. Đến ngày 24/01/2013 Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang ra Quyết định đình chỉ vụ án (Lý do: Người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố); Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1975 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố Thanh Mai, phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983 (vắng mặt) - Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1982 (vắng mặt) - Anh Nguyễn Tùng L, sinh năm 1999 (vắng mặt) Đều cư trú: Thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang - Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn P Khê, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang - Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1980 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn Lai Khê, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Thân Quang Đ, sinh năm 2000 (vắng mặt) - Anh Đào Văn L, sinh năm 1999 (vắng mặt) Đều cư trú: Thôn Liên Xuyên, xã Song Khê, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1999 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Tĩnh Lộc, xã Nghĩa T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Nghiêm Xuân H, sinh năm 1983 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Ông Trần Văn P, sinh năm 1963 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Ba Làng, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1984 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Nguyễn Hữu D, sinh năm 1981 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 15 Pt, ngày 24/3/2018, bị cáo Nguyễn Văn G (G thuê trọ làm cầm đồ tại thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên) cùng Nguyễn Văn H - sinh năn 1983, Nguyễn Văn D - sinh năm 1982 đều ở thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên và Nguyễn Văn T - sinh năm 1986 ở thôn P Khê, xã Quế Nham, huyện Tân Yên đang ngồi uống nước tại nhà Nguyễn Thành T - sinh năm 1981 đối diện với quán cầm đồ của mình thì thấy anh Nguyễn Văn C - sinh năm 1975, nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Thanh Mai, phường Đa Mai, thành phố Bắc Giang (anh C kinh doanh quán nước cafe tại thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên) đi bộ đến để gọi anh T về. Do trước đó C có vay tiền G nhưng chưa trả hết nên khi gặp C, G bảo “tiền không dễ nuốt của người ta đâu” nhưng anh C không bảo gì. Sau đó, anh C và T cùng nhau đi về. Ngay lúc đó, bị cáo G chạy về quán cầm đồ của mình cầm 01 chiếc đao bằng kim loại, dài khoảng 58cm, phần bản rộng 4,5cm đuổi theo anh C. Lúc này trong quán cầm đồ của G đang có Nguyễn Tùng L - sinh năm 1999 ở thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên; Thân Quang Đ - sinh năm 2000, Đào Văn L - sinh năm 1999 đều ở thôn Liên Xuyên, xã Song Khê, thành phố Bắc Giang;

Nguyễn Văn H - sinh năm 1999 ở thôn Tĩnh Lộc, xã Nghĩa T, huyện Việt Yên đang ngồi chơi máy tính. Thấy G về lấy đao đuổi theo anh C nên L, Đ, L và H cũng chạy theo G. Khi thấy G cầm đao đuổi theo, anh C cúi xuống đường nhặt viên gạch ném về phía G nhưng không trúng rồi tiếp tục bỏ chạy về phía Cầu Điếm Tổng. Khi anh C và T chạy đến quán Internet của gia đình anh Nghiêm Xuân H - sinh năm 1984 ở thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên thì G đuổi kịp, anh T đã mở được cửa quán cafe và đi vào trong quán còn anh C có đẩy cửa xếp tại quán nhà anh H nhưng không mở được. Lúc này, G dùng tay phải cầm đao vung lên chém từ trên xuống dưới, anh C giơ tay phải lên đỡ thì bị đao của G chém trúng vào vùng trán và mu bàn tay phải anh C. Bị G chém, anh C chạy quanh mấy chiếc xe mô tô đang để trước cửa quán, G đứng đối diện cầm đao chém ngang trúng vào má anh C làm anh C bị ngã ngồi tại vị trí cửa quán Internet và chiếc đao của G chém trúng vào cửa xếp quán Internet bị văng lưỡi rơi tại chỗ nhưng G không nhặt. Khi G đang cầm chuôi chiếc đao trên tay thì các anh L, Đ, H và L cũng chạy đến thì G bảo “đi về” , thấy vậy, L, Đ, H, L cùng G đi về quán cầm đồ của mình. Anh C được anh T đưa đến Bệnh viện điều dưỡng cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang điều trị từ ngày 24/3/2018 đến ngày 30/3/2018 thì ra viện.

Sau khi nhận được trình báo, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên tiến hành khám nghiệm hiện trường. Kết quả: Cách lề đường bên phải Quốc lộ 17 (hướng Bắc Giang - Cao Thượng) 1,2 m phát hiện dấu vết máu kí hiệu số 1 dạng nhỏ giọt, không đồng đều, kích thước 0,32 x 0,2 m. Từ tâm vết 1 về phía Đông 2,94m phát hiện 01 chiếc đao bằng kim loại (không còn cán đao) dài 40cm nằm dưới nền xi măng song song với cửa quán Internet Xuân H, đầu chiếc đao hướng về phía Cao thượng, vị trí chiếc đao cách cửa quán Xuân H là 0,8m, cách bờ tường bên trái là 0,5m.

Cách vị trí chiếc đao về phía Nam 20m phát hiện 01 chiếc chổi bị gãy cán chỉ còn lại phần chổi bằng tre. Cách đầu vết 1 về phía Bắc 3,2m phát hiện dấu vết máu ký hiệu 2 dạng nhỏ giọt không đồng đều, kích thước 1,2 x 0,8m. Tâm vết 2 cách lề đường bên phải là 1,1m. Cách cột điện dân sinh 19-284/4717.12 là 3,9m. Tại vị trí cánh cửa quán Internet Xuân H 0,9m phát hiện 01 con dao bấm nhỏ, đầu dao hướng về Quốc lộ 17. Vị trí con dao bấm cách bờ tường bên phải quán Internet là 0,43m. Tại bờ tường bên phải quán Internet Xuân H phát hiện dấu vết máu ký hiệu 3 dạng tia hướng từ trên xuống dưới, từ Nam đến Bắc trên diện 0,7 x 0,3m. Vị trí cao nhất tại dấu vết 3 là 1,25m.

Cơ quan điều tra tạm giữ tại hiện trường: 01 chiếc đao bằng kim loại không còn cán đao, dài 40cm, phần bản rộng 4,5cm, gắn phần chuôi sắt dài 9cm; 01 con dao bằng kim loại (loại dao bấm).

Cùng ngày 24/3/2018 CQĐT tiến hành tạm giữ của Nguyễn Văn G 01 chiếc chuôi dao bằng gỗ dài 18cm, được bọc bằng kim loại. Sau đó Nguyễn Văn G đến Công an huyện Tân Yên đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại giấy chứng nhận thương tích số 12343 ngày 12/4/2018 Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định anh C có các thương tích sau:

Vết thương bàn tay phải KT (10 x 5)cm, đứt gân duỗi 2,3,4; vỡ nền xương bàn 3,4.

Vết thương vùng mặt 05cm. Vết thương trán 10cm.

X-Quang gẫy đầu gần xương bàn 3, 4 bàn tay phải.

CT-Scanner: không thấy bất thường nội sọ trên phim chụp.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8218/18/TgT ngày 03/5/2018 T tâm pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Thương tích vết sẹo vùng trán 2%.

- Thương tích vết sẹo vùng má phải 1%.

- Thương tích vết sẹo vùng mu tay phải + Khám thần kinh, vận động: Ảnh hưởng động tác gấp duỗi ngón tay mức độ ít + X-Quang: Gãy đầu gân xương bàn 3,4 bàn tay phải, đã can xương 14%.

- Vật gây thương tích: Các thương tích do vật sắc gây nên, không xác định được chiều hướng gây thương tích.

- Chiếc đao (mẫu giám định) gây thương tích cho Nguyễn Văn C.

Cơ quan điều tra Quyết định trưng cầu giám định 01 thân dao (dạng đao) và 01 chiếc chuôi dao có trùng khớp và là cùng một con dao không? Tại kết luận giám định số 1629/KL-KTHS ngày 30/11/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Chuôi và lưỡi dao gửi giám định là trùng khớp của cùng một con dao.

Trong quá trình điều tra, ban đầu Nguyễn Văn C khai: Khi anh C và anh T đi về thì có khoảng 6 người thanh niên chạy theo chặn lại, G ở phía sau hô “chém chết mẹ nó đi - không để cho nó vào nhà”. Anh C chạy đến quán Internet nhà anh H thì bị các thanh niên chém gây thương tích cho anh C. Cơ quan điều tra tiến hành cho G và anh C đối chất lời khai. kết quả: anh C trình bày G là người trực tiếp dùng đao chém gây thương tích cho anh C phù hợp với lời khai của bị cáo G, vật chứng đã thu giữ, lời khai của những người làm chứng anh L, anh L, anh Đ đều khẳng định khi chạy theo G thì L, L và Đ không cầm theo đồ vật gì và khi quan sát thấy G dùng đao chém anh C lúc đó trời tối không nhìn thấy G chém vào đâu và chém bao nhiêu nhát. Đến khi anh C ngã ngồi xuống cửa thì G cầm chuôi đao đi về, lúc này L, L, Đ và H mới chạy đến thì G bảo “đi về”.

Ngày 24/02/2021 Cơ quan điều tra tổ chức thực nghiệm điều tra cho Nguyễn Văn G và Nguyễn Văn C diễn lại hành vi, tư thế, động tác quá trình G gây thương tích. Kết quả: Cả G và anh C đều khẳng định G cầm đao bằng tay phải đứng phía đuôi xe mô tô còn anh C đứng phía đầu xe mô tô, G giơ đao lên cao chém từ trên xuống dưới, anh C giơ tay đỡ thì đao chém trúng vào trán và tay phải của anh C.

Tiếp đó, G cầm đao chém ngang ở tư thế đối diện làm trúng vào má của anh C. Sau đó anh C ngồi xuống lưng dựa vào cửa xếp.

Kết quả nhận dạng vật chứng: Bị cáo Nguyễn Văn G nhận dạng chính xác chiếc đao Cơ quan điều tra thu giữ khi khám nghiệm hiện trường là chiếc đao G dùng để chém gây thương tích cho anh C. Về nguồn gốc chiếc đao: Nguyễn Văn G mua tại tỉnh Cao Bằng mục đích treo trang trí tại cửa hàng Cầm đồ.

Với nội dung vụ án như trên, tại Bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 26/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố bị cáo Nguyễn Văn G về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự với tình tiết quy định tại điểm a,i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn G và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 với tình tiết quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G từ 38 tháng tù đến 40 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét Về vật chứng, án phí đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo G thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị hại, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và truy tố đã có lời khai nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292;

Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo G tại phiên tòa hôm nay phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo, lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, vật chứng thu giữ và kết quả giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang và kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 30 Pt ngày 24/3/2018 tại thôn 284, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, bị cáo G đã thực hiện hành vi dùng 01 chiếc đao bằng kim loại dài khoảng 58cm, phần bản rộng 4,5cm, chuôi bằng gỗ bọc kim loại chém nhiều nhát vào trán, má phải, mu bàn tay phải của anh Nguyễn Văn C. Hậu quả làm C bị tổn thương 17% sức khỏe.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, thương tích mà bị cáo gây ra cho anh C là 17%, bị cáo sử dụng chiếc đao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh C. Với hành vi nêu trên của bị cáo G đã đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý gây thương tích” theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự với tình tiết quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. [4] Xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có xuất phát từ việc anh C có vay tiền G nhưng chưa trả hết, không có mâu thuẫn gì đối với bị hại anh C mà bị cáo đã dùng chiếc đao chém vào vùng trán, mu bàn tay phải của anh C, sau khi bị G chém anh C đã bỏ chạy, G vẫn còn chém chém trúng vào má anh C đến khi có người can ngăn bị cáo mới thôi, thể hiện sự hung hãn, côn đồ coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác của bị cáo, bị cáo dùng đao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh C. Hành vi nêu trên của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền bảo vệ sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, vụ án cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo G đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa bị cáo ban đầu không thừa nhận điều khoản như cáo trạng đã truy tố, sau đó lại thay đổi lời khai nhất trí với cáo trạng của Viện kiểm sát và không có ý kiến gì, mong Hội đồng xét xử xem xét. Sau khi phạm tội bị cáo đã đến Công an huyện Tân Yên đầu thú về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã bồi tường thiệt hại cho bị hại anh C, anh C có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo G. Hội đồng xét xử thấy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định.

[6] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 đã bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Giang quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “ Cố ý gây thương tích”. Đến ngày 24/01/2013 Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang ra Quyết định đình chỉ vụ án với lý do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố. Bị cáo đã từng bị khởi tố về tội “ Cố ý gây thương tích” không lấy đó là bài học, tu dưỡng lại tiếp tục dùng hung khí nguy hiểm có hành vi Cố ý gây thương tích cho người khác.

Từ những phân tích trên, đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo với xã hội trong một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật. [7] Về trách nhiệm dân sự:

Trong giai đoạn điều tra, bị cáo G đã chủ động đến thăm gặp và tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại anh Nguyễn Văn C số tiền là 30.000.000 đồng. Đến nay, anh C không yêu cầu đề nghị gì về việc bồi thường thiệt hại và làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn G. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 con dao bằng kim loại (loại dao bấm), quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác định là con dao của anh C mang theo người và bị rơi khi bị G gây thương tích. Quá trình điều tra anh C không đề nghị xin lại, Hội đồng xét xử xét thấy con dao này giá trị sử dụng thấp cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc đao bằng kim loại không còn cán dao, dài 40cm, phần bản rộng 4,5cm, gắn phần chuôi sắt dài 9 cm; 01 chiếc chuôi đao bằng gỗ dài 18cm, được bọc bằng kim loại. Hội đồng xét xử xét thấy đây là công cụ bị cáo sử dụng dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

* Đối với hành vi của anh Nguyễn Tùng L, anh Thân Quang Đ, anh Đào Văn L và anh Nguyễn Văn H khi thấy bị cáo G về quán cầm đồ lấy đao đã tự ý chạy theo để xem có việc gì thì can ngăn. Quá trình chạy theo bị cáo G thì anh L, anh Đ, anh H và anh L không có bất cứ hành động gì nên hành vi của các đối tượng trên không vi phạm pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo G phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và quy định tại Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Bị hại có quyền kháng cáo theo Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134 (với tình tiết quy định tại điển a, i khoản 1 Điều 134 của bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Khoản 1 Điều 292; Điều 293; Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016; Xử:

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G 03(ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét. [4] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) chiếc đao bằng kim loại không còn cán đao, dài 40cm, phần bản rộng 4,5m, gắn phần chuôi sát dài 9cm;

+01 (một) con dao bằng kim loại;

+ 01 (một) chiếc chuôi đao bằng gỗ dài 18cm, được bọc bằng kim loại.

[5] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HS-ST ngày 27/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về