Bản án 24/2021/HS-ST ngày 21/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 15, 21 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Thị H (tên gọi khác: Hải), sinh năm 1988 tại Thanh Hóa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã Q, huyện G, tỉnh Đăk Nông; Chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã Ơ, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quang V và bà Lê Thị D; có chồng Nguyễn Văn T (đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 22/12/2020 đến nay “có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1987 “vắng mặt”.

2. Ông Lê Hoàng L, sinh năm 2000 “vắng mặt”.

Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Ơ, huyện B, tỉnh Bình Phước

* Người chứng kiến:

1. Ông Hoàng Văn D, sinh năm 1975 “vắng mặt”.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Ơ, huyện B, tỉnh Bình Phước

2. Ông Nguyễn Danh N “vắng mặt”.

Địa chỉ: Thôn L, xã Ơ, huyện B, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/12/2020, Phạm Thị H nảy sinh ý định mua ma túy đem về bán lại kiếm lời nên H đi xe mô tô chở khách (không rõ nhân thân lai lịch đối tượng điều khiển) từ phòng trọ tại thôn L, xã Ơ, huyện B, tỉnh Bình Phước đến quán cà phê khu vực chợ Phước Long thuộc thị xã P, tỉnh Bình Phước gặp một đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 700.000 đồng ma túy. Sau khi mua được ma túy, H đi xe mô tô chở khách (không rõ nhân thân lai lịch đối tượng điều khiển) về lại phòng trọ tại thôn Đắk Lim, xã Đắk Ơ. Tại đậy, H lấy một ít ma túy ra sử dụng, số còn lại H chia làm 05 phần rồi lấy túi nylon gói lại, sau đó H cất giấu vào trong lọ thủy tinh (lọ lăn khử mùi )04 gói, còn 01 gói ma túy cất giấu vào trong khẩu trang vải màu đen. Khoảng 19 giờ cùng ngày H lấy 01 gói ma túy trong lọ thủy tinh đem bán cho Trần Văn Đ lấy số tiền 300.000 đồng. Đến 21 giờ cùng ngày Đ và Lê Hoàng L tiếp tục đến phòng trọ của H để mua ma túy. Lúc này, H không có ở trong phòng mà chỉ có Hoàng Văn D (bạn trai của H) nên Đ đi đến hỏi “chị H đâu” ngay lúc này H đi về phòng thì Đ đưa 300.000 đồng cho H và nói “này chị này” thì D cầm lấy tiền, đưa lại cho H rồi đi rửa chén bát. Sau đó, H đi lấy 01 gói ma túy trong lọ thủy tinh đưa cho Đ và L.

Ngay lúc này, bị Công an xã Ơ và Công an huyện B phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật gồm:

- 01 gói nylon ma túy chứa tinh thể màu trắng ở dưới đất tại vị trí Trần Văn Đ đang đứng.

- Thu giữ trong bàn tay phải của Phạm Thị H số tiền 300.000 đồng.

Ngày 23/12/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Thị H thu giữ 01 gói nylon nằm trong 01 khẩu trang vải màu đen và 02 gói ny lon trong lọ thủy tinh (lọ lăn khử mùi) để phục vụ điều tra.

Tại bản Kết luận giám định số 20 ngày 28/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon Hn kín (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,0739 gam; Tinh thể màu trắng có trong 03 gói nylon Hn kín (ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,5376 gam.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 13 tháng 5 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đã truy tố bị cáo Phạm Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng đề nghị: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Đối với 1,2434 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định, 01 lọ thủy tinh và 01 khẩu trang bằng vải màu đen là vật chứng vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ của Phạm Thị H là số tiền bán ma túy cho Trần Văn Đ và Lê Hoàng L vào lúc 21 giờ ngày 22/12/2020 mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách NH nước.

Đối với số tiền 300.000 đồng Phạm Thị H bán ma túy cho Trần Văn Đ vào lúc 19 giờ ngày 22/12/2020 mà có, H đã sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân hết nên cần truy thu nộp ngân sách NH nước.

Tại phiên tòa bị cáo H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã xác định.

Tại phiên tòa bị cáo H không tranh luận gì về tội danh, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo H nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật. bị cáo có con nhỏ hiện đang ở cùng với ông bà ngoại chăm sóc, nhưng ông bà ngoại hiện đã lớn tuổi và thường xuyên bị bệnh nên bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cóa sớm được trở về với xã hội để chăm sóc con và bố mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về áp dụng Bộ luật Hình sự để xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các hành vi phạm tội thực hiện từ ngày 01/01/2018 trở đi thì áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải quyết.

[3] Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do muốn có ma túy để sử dụng và bán lấy tiền tiêu xài, nên ngày 22/12/2020 bị cáo Phạm Thị H đã đến khu vực chợ Phước Long thuộc thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước gặp một đối tượng không rõ nhân thân lai lịch mua 700.000 đồng ma túy rồi đem về phòng trọ của mình tại thôn Đắk Lim, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước chia ra 5 phần để bán lại kiếm lời.

Khoảng 19 giờ cùng ngày bị cáo H bán cho Trần Văn Đ 01 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng; khoảng 21 giờ cùng ngày H tiếp tục bán cho Trần Văn Đ và Lê Hoàng L 01 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng thì bị Công an huyện Bù Gia Mập bắt quả tang. Tổng khối lượng ma túy 1,6115 gam.

[4] Đối chiếu hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Thị H so với những quy định của pháp luật thì hành vi của bị cáo H đã đủ yếu tố cầu tHnh tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập truy tố bị cáo H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của nH nước đối với các chất gây nghiện trong đó có ma túy loại Methamphetamine. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi phạm tội của mình là rất nguy hiểm, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân và bán để kiếm lời lấy tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo đã cố ý trực tiếp thực hiện việc phạm tội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung.

[6] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội bị cáo H đã tHnh khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo H theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6.2] Về tình tiết tăng nặng: bị cáo H không có tình tiết tăng nặng tránh nhiệm hình sự nào.

[6.3] Về nhân thân: bị cáo H là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Xét về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó bị cáo H có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo H là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

[8] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về vật chứng:

Đối với 1,2434 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định, 01 lọ thủy tinh và 01 khẩu trang bằng vải màu đen là vật chứng vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ của Phạm Thị H là số tiền bán ma túy cho Trần Văn Đ và Lê Hoàng L vào lúc 21 giờ ngày 22/12/2020 mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách NH nước.

Đối với số tiền 300.000 đồng Phạm Thị H bán ma túy cho Trần Văn Đ vào lúc 19 giờ ngày 22/12/2020 mà có, H đã sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân hết nên cần truy thu nộp ngân sách NH nước.

[9] Đối với đối tượng bán ma túy và đối tượng điều khiển xe mô tô chở khách thuê, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập không có căn cứ để điều tra, xử lý nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.

[10] Đối với Trần Văn Đ và Lê Hoàng L mua 0,0739gam ma túy của Phạm Thị H về để sử dụng cho bản thân. Khối lượng ma túy dưới mức định lượng để xử lý hình sự; bản thân Đ và L chưa có tiền án, tiền sự về hành Tàng trữ trái phép chấp ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập đã ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính, do đó Hội đồng xét xử không xem xét xử lý lại.

[11] Đối với Hoàng Văn D có cầm số tiền 300.000 đồng mua bán ma túy từ Trần Văn Đ đưa cho Phạm Thị H, nhưng D không biết số tiền đó là để mua bán trái phép chất ma túy, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập không xử lý đối với D nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý lại.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị H (tên gọi khác: Hải) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị H 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 22/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật Hình sự;Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong số 20M2, trên bì thư có chữ ký của cán bộ giám định Vũ Thị Th, cán bộ Nguyễn Thanh Ti, người chứng kiến Phạm Thị H có đóng dấu đỏ của Công an xã Đăk ơ và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, bên trong có chứa 1,2434 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định; và 01 lọ thủy tinh và 01 khẩu trang bằng vải màu đen là vật chứng vụ án Tuyên tịch thu nộp ngân sách NH nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Phạm Thị H là số tiền bán ma túy cho Trần Văn Đ và Lê Hoàng L vào lúc 21 giờ ngày 22/12/2020 mà có.

(Theo biên bản giao nhận vât chứng số 0008711 ngày 13/5/2021 của Chi cục THADS huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước) Tuyên truy thu nộp ngân sách NH nước số tiền 300.000 đồng Phạm Thị H bán ma túy cho Trần Văn Đ vào lúc 19 giờ ngày 22/12/2020 mà có, H đã sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Thị H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HS-ST ngày 21/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về