Bản án 24/2017/HNGĐ-ST ngày 23/05/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và nợ chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 24/2017/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN VÀ NỢ CHUNG

Ngày 23 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 05/2017/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và nợ chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 05 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trương Thị D, Địa chỉ: đường T, phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Bị đơn: Ông Huỳnh Hồng V, Địa chỉ: đường L, phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trương Thị D; Địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

2. Ngân hàng HT; Địa chỉ: đường B, phường C, Quận D, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Duy H– Chức vụ: Phó Phòng tín dụng Doanh nghiệp và cá nhân Ngân hàng HT; Địa chỉ: đường P, phường O, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, văn bản ủy quyền ngày 01/7/2013 (có mặt)

3. Ngân hàng thương mại cổ phần Đ; Địa chỉ:, Phường V, quận K, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Anh L - Chức vụ: Trưởng phòng Quản lý rủi ro Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ; Địa chỉ: đường T, phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, văn bản ủy quyền ngày 03/02/2017 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lập ngày 26/12/2016 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trương Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông V có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thị xã (nay thành phố) S, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 96/2003; ngày 13/6/2003, hôn nhân của ông bà hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn bà D và ông V chung sống với nhau hạnh phúc. Nhưng đến năm 2008 thì ông bà phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông V không chăm lo cho gia đình, thường xuyên ăn nhậu, đánh và chửi bà D nhiều lần.

Vào ngày 26/9/2016 bà D có gửi đơn đến Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xin ly hôn với ông Huỳnh Hồng V, nhưng sau đó ông V cam kết với bà D sẽ thay đổi nên bà D đã rút đơn và vợ chồng trở về chung sống với nhau. Nhưng đến đầu tháng 12/2016 ông V vẫn không thay đổi và vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Nay bà D nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên bà D yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Huỳnh Hồng V.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà D và ông V có 02 người con chung tên Huỳnh Anh T, sinh ngày 20/8/2004; Huỳnh Nhật T, sinh ngày 05/10/2008. Hiện cháu Huỳnh Anh T đang sống với bà Trương Thị D, còn cháu Huỳnh Nhật T đang sống với ông Huỳnh Hồng V từ tháng 10 năm 2016 cho đến nay.

Sau khi ly hôn bà Trương Thị D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huỳnh Anh T và cháu Huỳnh Nhật T. Bà D không yêu cầu ông Huỳnh Hồng V cấp dưỡng cho cháu Huỳnh Anh T và cháu Huỳnh Nhật T.

Về tài sản chung: Vợ chồng ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung:

Trong thời gian chung sống bà D và ông V có các khoản nợ sau:

+ Nợ của bà Trương Thị T (cô ruột của bà D) 06 lượng vàng (trong đó 03 lượng vàng SJC và 03 lượng vàng 24K).

+ Nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Đ tính đến hết ngày 23/5/2017 số tiền 84.459.694 đồng (trong đó tiền vốn vay là 83.330.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 1.125.770 đồng, lãi quá hạn là 3.924 đồng). Khi vay có thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng đất có diện tích 194,4m2 , thuộc thửa số 616, tờ bản đồ 56, tọa lạc tại phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 032849 do UBND thị xã nay là thành phố S cấp cho ông Huỳnh Hồng V ngày 18/5/2005.

+ Nợ tín chấp tại Ngân hàng HT, số tiền tính đến hết ngày 23/5/2017 là 117.775.700 đồng (trong đó tiền vốn vay là 117.500.000 đồng và tiền lãi là 275.700 đồng).

Sau khi ly hôn bà D sẽ chịu trách nhiệm trả nợ vay tín chấp tại Ngân hàng HT số tiền 117.775.700 đồng. Đối với khoản nợ vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền vốn và lãi là 84.459.694 đồng và khoản nợ của bà Trương Thị T là 06 lượng vàng thì bà D và ông V chia đôi khoản nợ trên, mỗi người chịu trách nhiệm trả một nửa.

Bị đơn ông Huỳnh Hồng V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông V thừa nhận lời trình bày của bà D về thời gian ông bà đăng ký kết hôn. Tuy nhiên theo ông V sau khi kết hôn ông, bà chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 9/2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bà D mê game online không quan tâm chăm sóc gia đình. Ông V khuyên nhủ bà D nhiều lần nhưng không được.

Việc bà D trình bày vợ chồng ông bà phát sinh mâu thuẫn từ năm 2008, nguyên nhân do ông V không chăm lo cho gia đình, thường xuyên ăn nhậu, đánh và chửi bà D nhiều lần là không đúng. Ông V thừa nhận, ông bà có cải vả xô xác qua lại chứ ông V không có đánh bà D.

Ông V cho rằng, ông còn thương vợ con, mong muốn trở về đoàn tụ nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà D.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà D và ông V có 02 người con chung tên Huỳnh Anh T, sinh ngày 20/8/2004; Huỳnh Nhật T, sinh ngày05/10/2008. Hiện cháu Huỳnh Anh T đang sống với bà D, còn cháu Huỳnh Nhật T đang sống với ông V từ tháng 10 năm 2016 cho đến nay.

Ông V không đồng ý ly hôn với bà D. Tuy nhiên, trường hợp Hội đồng xét xử giải quyết ly hôn thì ông V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huỳnh Nhật T và giao cháu Huỳnh Anh T cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi hai cháu trưởng thành và không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung:

Trong thời gian chung sống ông V và bà D có các khoản nợ sau:

+ Nợ của bà Trương Thị T (cô ruột của bà D) 06 lượng vàng (trong đó 03 lượng vàng SJC và 03 lượng vàng 24k).

+ Nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Đ tính đến hết ngày 23/5/2017 số tiền 84.459.694 đồng (trong đó tiền vốn vay là 83.330.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 1.125.770 đồng, lãi quá hạn là 3.924 đồng). Khi vay có thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng đất có diện tích 194,4m2, thuộc thửa số 616, tờ bản đồ 56, tọa lạc tại phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 032849 do UBND thị xã nay là thành phố S cấp cho ông Huỳnh Hồng V ngày 18/5/2005.

Đối với hai khoản nợ này thì ông V và bà D chia đôi, mỗi người chịu trách nhiệm trả một nửa.

Đối với khoản nợ tín chấp tại Ngân hàng HT số tiền 140.000.000đ như bà D trình bày ông V không biết nên không đồng ý trả khoản nợ này với bà D.

Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ là ông Trần Anh L trình bày:

Vào ngày 15/6/2016, Ngân hàng TMCP Đ có cho ông Huỳnh Hồng V vay số tiền 100.000.000 đồng, theo hợp đồng tín dụng số 163/2016/5045124/HĐTD, mục đích vay tiêu dùng, thời hạn vay 60 tháng. Tính đến hết ngày 23/5/2017, ông Huỳnh Hồng V còn nợ lại số tiền vốn vay là 83.330.000 đồng và tiền lãi trong hạn là 1.125.770 đồng, lãi quá hạn là 3.924 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 84.459.694 đồng.

Khi vay, ông V và bà D thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất diện tích 194,4m2, thuộc thửa số 616, tờ bản đồ 56, phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận QSD đất số AC 032849 do UBND thị xã nay là thành phố S cấp cho ông Huỳnh Hồng V ngày 18/5/2005.

Đối với khoản vay này, Ngân hàng đồng ý để ông Huỳnh Hồng V tiếp tục thực hiện việc trả nợ theo hợp đồng. Ngân hàng TMCP Đ không khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết khoản nợ của ông V trong cùng vụ án này. Trường hợp ông V không thực hiện việc trả nợ theo thỏa thuận thì Ngân hàng sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác.

Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng HT là ông Lê Duy H trình bày: Vào ngày  20/4/2016, Ngân hàng HT có cho bà Trương Thị D vay số tiền 150.000.000 đồng, theo hợp đồng tín dụng số 047.23/16/HĐTD, mục đích sử dụng sinh hoạt gia đình, thời hạn vay 60 tháng. Tính đến hết ngày 23/5/2017, bà Trương Thị D còn nợ lại số tiền vốn vay là 117.500.000 đồng và tiền lãi là 275.700 đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 117.775.700 đồng.

Đối với khoản vay này, Ngân hàng yêu cầu bà Trương Thị D tiếp tục có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng theo hợp đồng đã thỏa thuận. Ngân hàng HT không khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết khoản nợ của bà D trong cùng vụ án này. Trường hợp bà D không thực hiện việc trả nợ theo thỏa thuận thì Ngân hàng sẽ khởi kiện bà D bằng vụ kiện khác.

Bà Trương Thị T trình bày:

Vào khoảng năm 2008, bà Trương Thị T (cô ruột của bà D) có cho vợ chồng ông Huỳnh Hồng V và bà Trương Thị D mượn 06 lượng vàng (trong đó 03 lượng vàng SJC, 03 lượng vàng 24K).

Nay bà T đồng ý để bà Trương Thị D chịu trách nhiệm trả 03 lượng vàng SJC và ông V sẽ chịu trách nhiệm trả 03 lượng vàng 24K.

Do giữa bà và bà D, ông V đã thỏa thuận được nên bà T không khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết khoản nợ của bà D, ông V trong cùng vụ án này. Trường hợp bà D, ông V không thực hiện việc trả nợ theo thỏa thuận thì bà T sẽ khởi kiện bà D, ông V bằng vụ kiện khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị D và ông Huỳnh Hồng V xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống do vợ chồng ông bà không biết xây dựng hạnh phúc cho riêng mình mà luôn để xảy ra bất đồng, mâu thuẫn. Mặc dù Tòa án đã tiến hành hòa giải cho vợ chồng trở về đoàn tụ nhiều lần nhưng bà D vẫn cương quyết xin ly hôn, còn ông V xin được đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy, thực trạng mâu thuẫn giữa bà D và ông V đã đến mức trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà D cho bà được ly hôn với ông V.

Về con chung: Bà D và ông V khai vợ chồng có 02 người con chung là cháu Huỳnh Anh T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Huỳnh Nhật T, sinh ngày 05/10/2008. Sau khi ly hôn bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con, còn ông V có nguyện vọng nuôi cháu Huỳnh Nhật T, giao cháu Huỳnh Anh T cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại bà D và ông V đều có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, do vậy cả bà D và ông V đều có điều kiện để trực tiếp nuôi dạy hai con, tuy nhiên tại biên bản lấy lời khai của cháu Huỳnh Anh T ngày 17/01/2017 (Bút lục số 118-119) và tại biên bản lấy lời khai của cháu Huỳnh Nhật T ngày 08/3/2017 (Bút lục số 120-121) thì hai cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ là bà Trương Thị D. Do đó căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà D giao cháu Huỳnh Anh T và cháu Huỳnh Nhật T cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà D không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Anh T và cháu Huỳnh Nhật T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Bà D và ông V trình bày ông bà tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Bà D và ông V thừa nhận có nợ của bà Trương Thị T 06 lượng vàng (trong đó 03 lượng vàng SJC, 03 lượng vàng 24K) và nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền vốn và lãi vay tính đến ngày 23/5/2017 là 84.459.694 đồng , có thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng đất có diện tích 194,4m2 , tọa lạc phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Huỳnh Hồng V đứng tên. Ông V và bà D yêu cầu chia đôi khoản nợ trên, mỗi người chịu trách nhiệm trả một nửa. Bà Trương Thị T và Ngân hàng thương mại cổ phần Đ cũng thừa nhận lời trình bày của ông V, bà D, tuy nhiên do bà T và Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ trên trong cùng vụ án này do đó Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Đối với khoản nợ tín chấp tại Ngân hàng hợp tác HT số tiền 117.775.700 đồng. Bà D và ông V thỏa thuận là bà D tự chịu trách nhiệm trả khoản nợ trên, Ngân hàng HT cũng đồng ý với ý kiến của bà D và ông V, tuy nhiên do Ngân hàng HT không có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ trên trong cùng vụ án này do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ý kiến của kiểm sát viên: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà D, cho bà D được ly hôn với ông V. Về con chung giao hai con cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục, ông V không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung do bà D và ông V trình bày tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét. Về nợ chung do những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Về án phí: Bà Trương Thị D phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 39 của Bộ luật dân sự.

Áp dụng các Điều 33, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị D được ly hôn ông Huỳnh Hồng V .

2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Anh T, sinh ngày 20/8/2004 và cháu Huỳnh Nhật T, sinh ngày 05/10/2008 cho bà Trương Thị D trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Hiện cháu Huỳnh Anh T đang sống với bà Trương Thị D còn cháu Huỳnh Nhật T đang sống với ông Huỳnh Hồng V.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà D không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Anh T và cháu Huỳnh Nhật T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ông Huỳnh Hồng V có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Huỳnh Anh T và cháu Huỳnh Nhật T, không ai có quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung: Bà D và ông V trình bày ông bà tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Do những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị T; Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, Ngân hàng HT không có đơn khởi kiện yêu cầu độc lập để yêu cầu Tòa án giải quyết khoản nợ của bà Trương Thị D và ông Huỳnh Hồng V trong cùng vụ án này, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Bà Trương Thị D phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà D đã nộp 200.000đ theo biên lai thu số 0004835 ngày 09/01/2017 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố S. Bà D phải nộp thêm số tiền 100.000đ.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2017/HNGĐ-ST ngày 23/05/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và nợ chung

Số hiệu:24/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về