Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

 BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 187/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương T1, sinh năm 1999 Cư trú tại: Khu Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ

- Bị đơn: Anh Vũ Văn T2, sinh năm 1986 Cư trú tại: Khu Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ.

(Chị T1 có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T2 vắng mặt tại phiên tòa.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Phương T1 trình bày: Chị và anh Vũ Văn T2 kết hôn năm 2017 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại UBND Đ (nay là xã H). Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống cùng với gia đình anh T2. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Một mặt do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mặt khác do ở cùng gia đình nhà chồng nên chị chịu nhiều áp lực và xảy ra mâu thuẫn. Từ tháng 5/2020 chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không có trách nhiệm với nhau. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T2.

- Về con chung: Chị T1 xác nhận vợ chồng có 02 con chung là Vũ Trung H, sinh ngày 15/5/2018 và Vũ Đức D, sinh ngày 20/01/2020. Hiện cháu H ở với anh T2, còn cháu D ở với chị. Sau khi ly hôn, chị đề nghị giao cháu H cho anh T2 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, còn chị tiếp tục trực tiếp nuôi cháu D. Chị và anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị T1 xác nhận không có.

Tại bản tự khai ngày 14/5/2020, bị đơn là anh Vũ Văn T2 xác nhận việc kết hôn và quá trình vợ chồng chung sống. Tuy nhiên anh xác định mâu thuẫn vợ chồng chỉ là nhỏ nhặt hàng ngày nên chị T1 xin ly hôn anh không nhất trí.

Về con chung, anh T2 xác nhận như trình bày của chị T1. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Trung H, sinh ngày 15/5/2018 còn chị T1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Đức D, sinh ngày 04/01/2020. Anh và chị T1 không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về tài sản chung, vay nợ chung, anh T2 xác nhận không có.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng phát biểu: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Phương T1 và anh Vũ Văn T2.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Phương T1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Đức D, sinh ngày 04/01/2020. Giao cho anh Vũ Văn T2 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Trung H, sinh ngày 15/5/2018. Chị T1 và anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị T1 và anh T2 xác nhận không có nên không phải giải quyết.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T1 phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Phương T1 cư trú tại xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ khởi kiện yêu cầu ly hôn và giải quyết nuôi con chung của vợ chồng với bị đơn là anh Vũ Văn T2 cư trú cùng địa chỉ nên đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, chị T1 tuy vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T2 đã được Tòa án triệu tập phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng không có mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử theo quy định.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Phương T1 và anh Vũ Văn T2 kết hôn với nhau vào năm 2017, trên cơ sở hai bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ (nay là xã H), huyện Đ, tỉnh Phú Thọ, đây là một hôn nhân hợp pháp. Hai bên chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do một phần bất đồng quan điểm sống, mặt khác do mâu thuẫn giữa chị T1 và gia đình anh T2. Từ tháng 5/2020 đến nay vợ chồng đã sống ly thân không quan tâm đến nhau nữa. Tuy anh T2 không nhất trí ly hôn, nhưng trong suốt thời gian vừa qua cũng không có biện pháp nào để cải thiện, hàn gắn quan hệ vợ chồng. Chính quyền địa phương xã H cũng xác nhận về mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T1 và anh T2. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T1 và anh T2 đã căng thẳng, trầm trọng kéo dài, mục đích xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững không đạt được. Do vậy việc chị T1 xin ly hôn anh T2 là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận.

[2.2]. Về con chung: Chị T1 và anh T2 có 02 con chung là Vũ Trung H, sinh ngày 15/5/2018 và Vũ Đức D, sinh ngày 04/01/2020. Hiện cháu H ở với anh T2 còn cháu D ở với chị T1. Tuy cháu H và cháu D đều chưa đủ 36 tháng tuổi, nhưng chị T1 và anh T2 đều đề nghị, nếu ly hôn thì mỗi người tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng một con như hiện nay. Do vậy sau khi ly hôn sẽ giao cháu Vũ Trung H, sinh ngày 15/5/2018 cho anh T2 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cho chị T1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Đức D, sinh ngày 04/01/2020. Chị T1 và anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

[2.3]. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị T1 và anh T2 xác nhận không có nên không phải giải quyết.

[2.4]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T1 phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Phương T1 và anh Vũ Văn T2.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Phương T1 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Đức D, sinh ngày 04/01/2020. Anh Vũ Văn T2 tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Trung H, sinh ngày 15/5/2018. Chị T1 và anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Chị T1 và anh T2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Phương T1 phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Số tiền chị T1 phải nộp được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số: AA/2020/0005195 ngày 07/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng. Chị T1 đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị T1 và anh T2 có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về