Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 23/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 12 tháng 4 năm 2018. Tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 113/2018/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 4 năm 2018 về việc “Xin ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Số 33/4 đường Lương Văn Can, khu phố 3, phường An Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Ông Trần Viết T, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Số 33/4 đường Lương Văn Can, khu phố 3, phường An Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày: Trước đây bà L và ông T tự nguyện chung sống như vợ chồng từ năm 2001, có tổ chức lễ cưới theo phong tục vào năm 2001, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Lý do xin ly hôn: Bà L trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, bất đồng quan điểm nguyên nhân là do tính tình đôi bên không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng gia đình tiến bộ và hạnh phúc. Nay thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà L yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà L xác nhận vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên  Trần Đăng Khoa, sinh ngày 29/12/2005 và Trần Minh Thiện, sinh ngày02/5/2007. Bà L yêu cầu được nuôi con tên Trần Đăng Khoa, và đồng ý giao ông T nuôi con tên Trần Minh Thiện, hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đối vớinhau.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bà L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với ông T, yêu cầu được nuôi con tên Trần Đăng Khoa, và đồng ý giao ông T nuôi con tên Trần Minh Thiện, hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đối với nhau.

* Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Viết T trình bày:

Trước đây bà L và ông T tự nguyện chung sống như vợ chồng từ năm 2001, có tổ chức lễ cưới theo phong tục vào năm 2001, không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Ông T trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm do tính tình đôi bên không hợp nhau dẫn đến tình cảm rạn nứt. Nay thấy không thể tiếp tục hàn gắn để chung sống hạnh phúc nên ông T đồng ý ly hôn với bà L.

Về con chung: Ông T xác nhận vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Trần Đăng Khoa, sinh ngày 29/12/2005 và Trần Minh Thiện, sinh ngày 02/5/2007. Ông T đồng ý giao bà L nuôi con tên Trần Đăng Khoa, và yêu cầu đượcnuôi con tên Trần Minh Thiện, hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đối với nhau.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, ông T đồng ý ly hôn với bà L, đồng ý giao bà L nuôi con tên Trần Đăng Khoa, và yêu cầu được nuôi con tên Trần Minh Thiện, hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đối với nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét quan hệ pháp luật tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị L và ông Trần Viết T là “Xin ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông T tự nguyện chung sống như vợ chồng từ năm 2001, có tổ chức lễ cưới theo phong tục vào năm 2001 nhưng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đời sống chung không phù hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm nên bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với ông T.

Xét quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông T đã không tuân thủ các quy định về đăng ký kết hôn theo Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng”. Căn cứ Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 09/06/2000 và trong thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất quyết định không công nhận bà Nguyễn Thị L và ông Trần Viết T là vợ chồng.

[3] Về quan hệ con chung: Bà L và ông T xác nhận vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Trần Đăng Khoa, sinh ngày 29/12/2005 và Trần Minh Thiện, sinh ngày 02/5/2007. Ông T, bà L yêu cầu giao bà L nuôi con tên Trần Đăng Khoa, ông T nuôi con tên Trần Minh Thiện, hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đối với nhau. Việc sống cùng mẹ sau khi cha mẹ ly hôn cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Khoa, việc sống cùng cha sau khi cha mẹ ly hôn cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Thiện nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Khoa cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Thiện cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Do bà L, ông T không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nữ trang, nợ chung: Bà L, ông T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Áp dụng Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000;

Áp dụng khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận mối quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị L với ông Trần Viết T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao người con chung tên Trần Đăng Khoa- sinh ngày 29/12/2005 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, giao người con chung tên Trần Minh Thiện- sinh ngày 02/5/2007 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Do bà L, ông T không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bà Nguyễn Thị L và ông Trần Viết T được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đối với nhau, không ai được quyền ngăn cản bà L và ông T thực hiện các quyền trên.

3. Về tài sản chung, nữ trang, nợ chung: Bà L, ông T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền 300.000 đồng bà L đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003976, ngày 26/3/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Rạch Giá, bà L đã nộp xong án phí sơ thẩm và không phải nộp thêm.

6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:23/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về