Bản án về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chi cục thuế và quyết định giải quyết khiếu nại số 228/2019/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 228/2019/HC-PT NGÀY 08/05/2019 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH CỦA CHI CỤC THUẾ VÀ QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Trong ngày 08 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 538/2018/TLST-HC ngày 27 tháng 9 năm 2018 về việc: Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chi cục Thuế huyện CT và Quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục thuế tỉnh TG ”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 22/2018/HC-ST ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Toàán nhân dân tỉnh TG bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 693/2019/QĐPT-HC ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Công ty TNHH TM – Cấp nước Thuỷ T. Trụ sở: ấp A, xã B, huyện T, tỉnh TG .

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Quang T, sinh năm 1972. Chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Lê Văn Hữu H, sinh năm 1955 (có mặt). Địa chỉ: số A Phường B, thành phố T, tỉnh TG (Theo văn bản ủy quyền số ngày 04/10/2017).

2. Người bị kiện:

2.1 Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện CT , tỉnh TG . Địa chỉ: Ấp C, thị trấn H, huyện T, tỉnh TG .

- Người đại diện hợp pháp cho người bị kiện: Ông Nguyễn Văn Q là người đại diện theo pháp luật, chức vụ: Phó chi cục trưởng - Chi cục thuế huyện CT (có mặt) 2.2 Cục trưởng Cục Thuế tỉnh TG . Địa chỉ: A, Phường B, thành phố T, tỉnh TG .

- Người đại diện đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tấn L, chức vụ: Cục trưởng Cục Thuế tỉnh TG .

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Văn M, chức vụ: Phó Cục trưởng, Cục thuế tỉnh TG (có mặt).

3. Người kháng cáo: Công ty TNHH TM – Cấp nước Thuỷ T. Trụ sở: ấp A, xã B, huyện T, tỉnh TG .

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Lê Văn Hữu H, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 15/6/2017 Chi cục Thuế huyện CT có ra Quyết định số 521 về việc xử lývi phạm hành chính về thuế đối với Công ty TNHH TM Cấp nước Thuỷ T.

Sau khi nhận được Quyết định số 521, ông T không đồng ý và có đơn khiếu nại gửi đến Chi cục Trưởng Chi cục Thuế huyện CT với nội dung: Công ty thành lập vào doanh trong lĩnh vực Môi trường của Chính Phủ nên phía Công ty có văn bản đề nghị Chi cục Thuế huyện CT xem xét cho Công ty được hưởng ưu đãi về chính sách thuế đã được pháp luật quy định. Văn tháng 09/2007 và đi vào hoạt động năm 2008. Do chích sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động kinh bản đã gửi nhưng chưa có văn bản nào của Chi cục Thuế huyện CT trả lời có chấp nhận hay không chấp nhận.

Năm 2014, Chi cục Thuế cóQuyết định số 115/QĐ-CCT ngày 12/3/2014 về việc kiểm tra thuế tại trụ sở Công ty.

Sau 05 ngày kiểm tra, Trưởng đoàn kiểm tra có Văn bản kết luận kiểm tra số 65/KL-CCT ngày 27/3/2014.

Ngày 15/12/2016 Chi cục Thuế huyện CT có thư mời số 56/TB- CCT về việc giải quyết theo Thông báo kết quả Kiểm toán Nhà nước Khu vực IX đối với Công ty TNHH TM Cấp nước Thuỷ T, cónội dung: Để làm rõ việc khắc phục theo Thông báo số 447/TBKVIX kết quả Kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước khu vực IX đối với Công ty. Thời gian làm việc lúc 13 giờ 30 phút ngày 20/12/2016.

Tại Biên bản làm việc ngày 26/12/2016 của Chi cục Thuế huyện CT thìChi cục Thuế cho rằng: Công ty tự xác định hưởng thuế suất 10%, miễn thuế 04 năm kể từ năm 2008, giảm 50% số thuế phải nộp 05 năm kể từ năm 2012 nên Chi cục Thuế cókết luận như sau: Đối với Công ty số tiền thuế TNDN truy thu là 190.906.934 đồng, số tiền xử phạt 10% năm 2012 và 20% từ năm 2013 đến năm 2015 trên số khai thiếu đối với hành vi khai sai là 34.029.348 đồng.

Ngày 15/6/2017 Chi cục Thuế huyện CT ra Quyết định số 521 xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty như đã nêu ở phần trên.

Ngày 19/6/2017 Công ty có đơn khiếu nại đến Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện CT vìcông ty không có khai thuế sau dẫn đến thiếu tiền như Quyết định số 521, đề nghị huỷ Quyết định.

Ngày 28/7/2017 Chi cục Trưởng Chi cục Thuế huyện CT ra Quyết định số 606 giải quyết khiếu nại giữ nguyên quyết định số 521.

Ngày 10/8/2017 Công ty có đơn khiếu nại đến Cục Trưởng Cục Thuế tỉnh TG yêu cầu xem xét lại, đề nghị hủy quyết định số 521 vàQuyết định số 606.

Ngày 15/9/2017 Cục trưởng Cục Thuế tỉnh TG ra quyết định số 1739 xác định doanh nghiệp được hưởng ưu đãi nhưng vẫn giữ nguyên Quyết định số 606 của Chi cục Thuế huyện CT .

Xét thấy: Việc Chi cục Thuế huyện CT ban hành Quyết định số 521 là không có căn cứ và trái pháp luật nhưng Chi cục Trưởng Chi cục Thuế và Cục trưởng Cục Thuế không thừa nhận việc Công ty khiếu nại là có cơ sở. Do công ty đi vào hoạt động kinh doanh Công ty đã có văn bản đề nghị Chi cục Thuế xem xét cho Công ty được hưởng các chế độ khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước quy định. Khi có Quyết định kiểm tra của Chi cục Thuế cũng đã cho thấy Công ty chấp hành tốt, kết luận số 65 thìtình hình sản xuất của công ty bình thường và được hưởng chính sách ưu đãi, thừa nhận công ty kê khai thuế đúng quy định pháp luật, còn đề nghị công ty bảo quản tốt các chứng cứ tài liệu nhưng vẫn ban hành quyết định xử phạt. Căn cứ vào đâu mà Chi cục Thuế huyện CT cho rằng công ty khai sai dẫn đến thiếu thuế.

Nay Công ty yêu cầu:

1. Huỷ Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục thuế huyện CT về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với Công ty TNHH TM Cấp nước Thuỷ T.

2. Huỷ Quyết định giải quyết khiếu nại số 1739/QĐ-CT ngày 15/9/2017 của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh TG .

Đối với Công văn số 53 của Chi cục Thuế huyện CT phía doanh nghiệp không nhận được. Chứng tỏ doanh nghiệp có văn bản đề nghị Chi cục Thuế xác định có được hưởng chính sách ưu đãi hay không? Doanh nghiệp tự kê khai thuế nhưng đến năm 2014 mới đề nghị xác định có được hưởng ưu đãi không, theo kết luận 65 thìDoanh nghiệp được hưởng ưu đãi nên doanh nghiệp không nộp.

* Đại diện theo ủy quyền của Cục thuế tỉnh TG trình bày:

Vẫn giữ nguyên Quyết định số 1739 của Cục thuế tỉnh TG . Căn cứ: Theo quy định của thuế thu nhập doanh nghiệp thìdoanh nghiệp tự xác định mức ưu đãi của mình. Qua kiểm tra của cơ quan thuế nếu doanh nghiệp thực hiện đúng thìviệc miễn giảm thuế đúng quy định. Hàng năm cơ quan kiểm toán khu vực IX kiểm tra trực tiếp hồ sơ doanh nghiệp tại đơn vị trong đó có hồ sơ của DNTN Thủy Triều, sau khi kiểm tra có kết luận của kiểm toán thì DNTN Thủy Triều không thuộc trường hợp được hưởng ưu đãi. Trên cơ sở kết luận của Kiểm toán khu vực IX thì Chi cục thuế ban hành Quyết định số 521 để trên cơ sở đó để truy thu thuế theo quy định pháp luật.

Về ưu đãi doanh nghiệp do doanh nghiệp tự xác định. Đội kiểm tra khi đi kiểm tra thuế doanh nghiệp cũng không xác định đúng về ưu đãi doanh nghiệp. Sau khi kiểm toán vào kiểm tra thì xác định doanh nghiệp không được hưởng ưu đãi, do đó theo quy định phải truy thu thuế đối với doanh nghiệp để nộp ngân sách.

* Đại diện người bị kiện Chi cục Thuế huyện CT trình bày:

Theo kết luận của Kiểm toán nhà nước khu vực IX thìviệc đoàn kiểm tra vàviệc doanh nghiệp tự xác định chính sách ưu đãi là không đúng quy định. Do đó trên cơ sở kết luận này, Chi cục Thuế huyện CT đã lập Biên bản vi phạm hành chính về thuế số 01BB-VPHC ngày 08/6/2017 và ban hành Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty, với tổng số tiền thuế truy thu, tiền phạt, tiền chậm nộp là 301.747.607 đồng. Ngày 19/6/2017, không đồng ývới Quyết định số 521, ông Trần Quang T gửi đơn khiếu nại về việc Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế đến Chi cục Thuế huyện CT .

Ngày 27/6/2017 Chi cục Thuế huyện CT nhận được đơn khiếu nại Quyết định số 521, Chi cục Thuế huyện CT đã tiến hành thụ lý đơn khiếu nại lần đầu của Công ty TNHH Cấp nước Thuỷ T theo đúng quy định của Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13.

Ngày 28/7/2017, Chi cục Thuế huyện CT đã ban hành Quyết định số 606/QĐ-CCT (giải quyết lần đầu); tại Điều 1 của Quyết định: Giữ nguyên Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục Thuế huyện CT về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty TNHH TM cấp nước Thuỷ T.

Chi cục Thuế huyện CT nhận thấy việc xử lývi phạm hành chính về thuế đối với Công ty TNHH TM Cấp nước Thuỷ T là đúng quy định pháp luật.

Theo văn bản số 53 của Chi cục thuế trả lời chỉ ghi ra các điều kiện để doanh nghiệp được miễn, phía Chi cục có câu nếu thuộc trường hợp trên thì được miễn.

Sau kết luận số 65, Kiểm toán nhà nước khu vực IX xác định việc hưởng ưu đãi của doanh nghiệp là không đúng, do đó Chi cục Thuế huyện CT ban hành quyết định số 521 để truy thu thuế từ năm 2008 đến năm 2015.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện ủy quyền của người khởi kiện ông Lê Văn Hữu H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án huỷ Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục trưởng chi cục thuế huyện CT về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với Công ty TNHH TM Cấp nước Thuỷ T vàcác Quyết định giải quyết khiếu nại số 606/ 1739/QĐ-CT ngày 15/9/2017 của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh TG vàtrình bày: Công ty TNHH Thủy Triều thành lập từ năm 2007 trong quá trình hoạt động công ty kêkhai thuế theo Luật đầu tư (miễn thuế 04 năm), đến năm 2012 Công ty Thủy Triều tiếp tục kê khai thuế theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP.

Theo Điều 8 Nghị định 69/2008/NĐ-CP thì công ty được hưởng ưu đãi thuế miễn thuế 04 năm kể từ năm 2008, giảm 50% số thuế phải nộp từ năm 2012 Công ty Thủy Triều đã đóng thuế đầy đủ từ năm 2012 đến 2016 theo mức thuế quy định Nghị định 69. Công ty cóyêu cầu chi cục thuế huyện CT xác định cho công ty được hưởng mức thuế suất ưu đãi theo quy định nào, nhưng Chi cục Thuế huyện CT không trả lời cho công ty. Theo quyết định số 115 về việc kiểm tra thuế đối với công ty, tại kết luận số 65/KL.CCT ngày 27/3/2014 Chi cục thuế huyện CT đã kết luận công ty kêkhai thuế theo Nghị định 69 là đúng. Như vậy, công ty không vi phạm hành vi khai sai thuế nên Quyết định 521 là không có căn cứ.

Chi cục Thi hành án huyện CT trình bày: Căn cứ dự án vàgiấy chứng nhận đầu tư do Ủy ban nhân dân tỉnh cấp thì công ty được hưởng ưu đãi thuế theo Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007, công ty không thuộc dối tượng được hưởng ưu đãi theo Nghị định số 69/2008/NĐ.CP. Công ty tự xác định được hưởng ưu đãi theo Nghị định 69/2008/NĐ.CP là không đúng quy định.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2018/HC-ST ngày 06-8-2018 của Toàán nhân dân tỉnh TG đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 32, Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 6; Điều 61 khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Khoản 1, 2 Điều 13 Nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính Phủ; Khoản 1, 2 Điều 10 Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chéthi hành quyết định hành chính thuế;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH TM Thủy Triều yêu cầu: Tuyên hủy một phần Quyết định số 521/QĐ.CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT ; Quyết định số 606/QĐ- CCT ngày 28/7/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT và Quyết định số 1739/QĐ-CT ngày 15/9/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh TG ; Đối với tiền chậm nộp mỗi ngày tính trên tổng số tiền thuế truy thu đến ngày 15/6/2017 ban hành quyết định xử lý vi phạm về thuế, với số tiền chậm nộp là 76.811.325 đồng.

Đề nghị Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT ban hành quyết định bổ sung thay thế quyết định 521/QĐ.CCT ngày 15/6/2017 đã bị hủy.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Ngày 10-8-2018, Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều, hủy Quyết định số 521/QĐ.CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT ; Quyết định số 606/QĐ-CCT ngày 28/7/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT và Quyết định số 1739/QĐ-CT ngày 15/9/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh TG .

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người khởi kiện trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu sửa án sơ thẩm huỷ toàn bộ các quyết định của cơ quan Thuế, không đồng ý nộp số thuế 190.906.934 đồng vìkhông cólỗi, kết luận của kiểm toán làsai.

Người bị kiện trình bày: Chi cục thuế vàCục thuế không đồng ý với ý kiến người khởi kiện, đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu về chấp hành pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, của đương sự; phân tích các chứng cứ cóở hồ sơ, ý kiến của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 15/6/2017 Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện CT ban hành quyết định số 521/QĐ-CCT về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với công ty TNHH TM Thủy Triều.

Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục trưởng chi cục thuế huyện CT vàcác quyết định giải quyết khiếu nại liên quan Quyết định số 606/QĐ.CCT ngày 28/7/2017 (viết tắt làQuyết định 606) của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện CT ; Quyết định số 1739/QĐ-CT ngày 15/9/2017 (viết tắt làQuyết định 1739) của cục trưởng Cục thuế tỉnh TG làQuyết định hành chính theo quy định tại Điều 3 vàthuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bằng vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính.

Ngày 29/9/2017 ông Trần Quang T đại diện theo pháp luật của công ty TNHH TM Thủy Triều nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh TG yêu cầu hủy quyết định số 521/QĐ-CCT vàcác quyết định giải quyết khiếu nại liên quan làtrong thời hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

[2] Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành Quyết định 521 vàQuyết định số 606; Quyết định số 1739;

Về Thẩm quyền ban hành: Căn cứ quyết định số 750/QĐ-CT ngày 18/4/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh TG về việc giao quyền phụ trách Chi cục thuế huyện CT cho ông Nguyễn Văn Q. Do đó, Quyết định số 521 do ông Nguyễn Văn Q Chi cục phóChi cục thuế huyện CT ký là đúng thẩm quyền.

Quyết định số 606/QĐ.CCT ngày 28/7/2017 do Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT ban hành là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật khiếu nại năm 2011.

Quyết định số 1739 do Cục trưởng Cục thuế tỉnh TG ban hành là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011.

Về trình tự thủ tục ban hành: Trên cơ sở báo cáo xác minh ngày 14/9/2017 báo cáo kết quả nội dung khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại số 606. Cục trưởng Cục Thuế tỉnh TG ban hành quyết định số 1739 là đúng trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại theo quy định tại các Điều 38, 39 40 Luật khiếu nại năm 2011.

[3] Tính hợp pháp về thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định số 521, quyết định 606 vàquyết định 1739:

a/ Về thời hạn ban hành Quyết định số 521/QĐ-CCT:

Căn cứ kết quả kiểm toán tại báo cáo số 447/TBKV IX ngày 30/11/2016 của Kiểm toán nhà nước khu vực IX. Chi cục thuế huyện CT lập biên bản vi phạm hành chính về thuế (Biên bản số 01/BB.VPHC ngày 08/6/2017). Như vậy, ngày 08/6/2017 là ngày có  hành vi vi phạm hành chính. Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập Biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp màkhông thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 61 Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày kể từ ngày lập Biên bản”. Đối chiếu theo quy định trên, vụ việc này thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại Điều 61 Luật xử lý vi phạm hành chính, Chi cục thuế huyện CT đã tiến hành họp xem xét giải trình của công ty TNHH TM Thủy Triều nên thời hạn ra quyết định xử phạt trong trường hợp này được áp dụng trong thời hạn 30 ngày theo quy định trên. Như vậy, Quyết định số 521/QĐ-XPVPHC ngày 15/6/2017 được ban hành đúng thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

b/ Về thời hiệu ban hành Quyết định số 521/QĐ.XPVPHC:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định “Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thìthời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về thuế”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 129/2013/NĐ.CP ngày 16/10/2013 của Chính Phủ quy định “Đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn thìthời hiệu xử phạt là 05 năm, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm đến ngày ra quyết định xử phạt” Như vậy, Chi cục trưởng Chi cục thuế ban hành Quyết định số 521 xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế làtrong thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 129/2013/NĐ.CP

[4] Tính hợp pháp về hình thức, nội dung Quyết định số 521/QĐ-CCT; Quyết định số 606, Quyết định số 1739;

- Về hình thức: Căn cứ để ban hành Quyết định số 521/QĐ-CCT của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện CT ; Quyết định số 606 vàQuyết định số 1739 của Chi cục trưởng Chi cục thuế tỉnh TG là có cơ sở, đúng quy định và được ban hành theo đúng thể thức của một quyết định hành chính.

- Về nội dung;

Công ty TNHH TM Thủy Triều khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT vàcác quyết định giải quyết khiếu nại liên quan vìCông ty Thủy Triều không vi phạm hành vi khai sai thuế. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện cho yêu cầu khởi kiện làkết luận số 65/KL.CCT ngày 27/3/2014 của Chi cục thuế huyện CT đã kết luận Công ty Thủy Thủy kêkhai thuế theo Nghị định 69 là đúng.

Xét thấy: Công ty TNHH TM Thủy Triều thành lập và được Sở kế hoạch đầu tư tỉnh TG cấp giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh số 1200666575 ngày 21/9/2007 với ngành nghề khai thác, xử lývàcung cấp nước sinh hoạt. Trong quátrình hoạt động, Công ty tự xác định được hưởng thuế suất TNDN 10%, miễn thuế 04 năm kể từ năm 2008, giảm 50% số thuế phải nộp 05 năm tiếp theo kể từ năm 2012 theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP.

Ngày 30/11/2016 Kiểm toán khu vực IX có thông báo số 447/TB thông báo kết quả kiểm toán tại huyện CT , tỉnh TG : Miễn giảm thuế cho Doanh nghiệp tự xác định: Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều không đủ điều kiện được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP. Chi cục Thuế huyện CT đã kiểm tra việc ưu đãi của doanh nghiệp nhưng không phát hiện Doanh nghiệp xác định ưu đãi sai, tổng số thuế công ty đã xác định hưởng ưu đãi sai từ năm 2008 đến năm 2015 là 191.766.750 đồng.

Căn cứ giấy Chứng nhận đầu tư số 531021000048 do Ủy ban nhân dân tỉnh TG cấp lần đầu ngày 06/5/2008 tại Điều 7 quy định các ưu đãi đối với dự án: Công ty TNHH TM Cấp nước Thủy Triều được hưởng ưu đãi đối với dự án đầu tư xây dựng nhà máy nước, hệ thống cấp nước phục vụ sinh hoạt theo B -Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư – Phụ lục I – Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính Phủ như sau: Được hưởng ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn, giảm thuế thu nhập theo quy định của Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007 của Chính Phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp;

Đối chiếu theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP vàmục V Danh mục loại hình tiêu chí, quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở được hưởng chính sách khuyến khích phát triển xãhội hóa theo Nghị định số 69/2008/NĐ- CP của Thủ tướng Chính Phủ thìcông ty cấp nước Thủy Triều không đáp ứng được quy định về quy môtheo yêu cầu thực tiễn hiện nay:

+ Chưa được cơ quan có thẩm quyền phêduyệt phùhợp với quy hoạch.

+ Tiêu chuẩn cán bộ (người phụ trách cơ sở và vị trí chủ chốt không có trình độ kỹ sư thuộc các ngành: Xây dựng, cấp thoát nước) + Yêu cầu về cơ sở vật chất, năng lực, công nghệ của cơ sở (năng lực về công nghệ chưa được đăng ký và chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, không có báo cáo tác động môi trường, chưa được cơ quan chức năng có thẩm quyền xác nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật địa phương).

Ngày 08/7/2016 Chi cục Thuế huyện CT đã tiến hành làm việc với ông Trần Quang T đại diện công ty TNHH TM Thủy Triều, vàyêu cầu công ty Thủy Triều cung cấp các tiêu chí để được hưởng ưu đãi tại Quyết định số 1466/QĐ.TTg ngày 10/10/2008 của Chính Phủ về việc quy định danh mục chi tiết các loại hình tiêu chíquy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xãhội hóa trong lĩnh vực giáo dục đào tạo dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường được hưởng chính sách khuyến khích phát triển xãhội hóa theo quy định Nghị định số 69/2008/NĐ.CP ngày 30/5/2008 của Chính Phủ.

Tuy nhiên, công ty Thủy Triều không cung cấp được tài liệu chứng minh công ty đủ điều kiện đáp ứng các quy định về quy môquy định tại Điều 2 Nghị định số 69/2008/NĐ.CP. Do đó, công ty TNHH TM Thủy Triều không đủ điều kiện được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP. Như vây, tại thời điểm thành lập công ty TNHH TM Thủy Triều thìỦy ban nhân dân tỉnh TG là cơ quan cấp chứng nhận đầu tư đã xác định Công ty được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định tại Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp;

Đại diện ủy quyền của công ty TNHH TM Thủy Triều cho rằng tại thời điểm thành lập Công ty, Công ty đã kê khai thuế theo Luật đầu tư đến khi Nghị định số 69/2008/NĐ.CP có hiệu lực thi hành thìCông ty mới kêkhai thuế theo quy định Nghị định 69.

Xét lời trình bày của đại diện ủy quyền của Công ty Thủy Triều không có căn cứ vì:

Thứ 1: Tại thời điểm thành lập Công ty Nghị định số 69/2008/NĐ.CP chưa có hiệu lực thi hành và đại diện ủy quyền của Công ty cũng không giải thích được vìsao Công ty lại không kê khai ưu đãi thuế theo quy định tại Nghị định số 24/2007/NĐ-CP mà Ủy ban nhân dân tỉnh TG đã cấp chứng nhận đầu tư, mà Công ty lại kêkhai thuế theo Luật đầu tư và sau đó lại kê khai thuế theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP.

Thứ 2: Công ty TNHH TM Thủy Triều chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận đủ điều kiện đáp ứng các tiêu chí, thuộc đối tượng doanh nghiệp xãhội hóa nên công ty phải thực hiện các ưu đãi theo quy định tại Nghị định số 24, nếu Công ty đủ điều kiện, đáp ứng được các tiêu chí theo Điều 2 Nghị định số 69 thìcông ty phải đề nghị cơ quan nhà nước cóthẩm quyền cấp chứng nhận Công ty thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi theo Nghị định 69.

Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện ủy quyền của Công ty TNHH TM Thủy Triều cho rằng trước khi Chi cục Thuế huyện CT kiểm tra thuế tại Công ty thìCông ty cógởi văn bản xin ýkiến Chi cục Thuế huyện CT về việc xác định ưu đãi thuế theo Điều 8 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP nhưng Chi cục Thuế huyện CT không trả lời, sau đó thì Chi cục Thuế huyện CT mới đưa ra công văn số 53/CCT ngày 12/3/2014 là để hợp thức hóa việc kiểm tra, thực tế Chi cục thuế huyện CT không cógởi công văn số 53/CCT cho công ty.

Xét thấy: Chi cục Thuế huyện CT cung cấp công văn số 01/2014/TTr ngày 26/02/2014 của Công ty Thủy Triều nội dung yêu cầu Chi cục Thuế huyện CT cho ý kiến về việc doanh nghiệp có được hưởng ưu đãi theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP hay không vàChi cục Thuế huyện CT đã ban hành công văn số 53/CCT ngày 12/3/2014 để trả lời cho công ty Thủy Triều theo nội dung công văn số 01. Do đó, lời trình bày của đại diện ủy quyền của công ty là không có căn cứ.

Công ty Thủy Triều đã xác định ưu đãi thuế TNDN từ năm 2010 đến 2015 không đúng quy định. Hành vi này làhành vi khai sai thuế dẫn đến thiếu số tiền thuế TNDN phải nộp của các năm 2012, 2013, 2014, 2015 tổng số tiền thuế là 190.906.934 đồng.

Số tiền xử phạt 10% năm 2012 và 20% (từ năm 2013 -2015) trên số thuế khai thiếu đối với hành vi khai sai đấn đến thiếu số tiền thuế TNDN phải nộp là 34.029.348 đồng. Do đó, Chi cục trưởng chi cục thuế huyện CT ban hành Quyết định số 521 xử phạt vi phạm hành chính về thuế và truy thu đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền Thuế Thu nhập doanh nghiệp phải nộp từ năm 2010 đến 2015 là có căn cứ.

Đối với số tiền chậm nộp mỗi ngày tính trên tổng số tiền thuế truy thu tính đến ngày ban hành quyết định xử lý vi phạm về thuế với số tiền chậm nộp là 811.325 đồng thấy rằng: Căn cứ Quyết định số 115/QĐ-CCT ngày 12/3/2014 của Chi cục Thuế huyện CT về việc kiểm tra thuế tại trụ sở Công ty TNHH TM Thủy Triều nhưng không phát hiện doanh nghiệp xác định việc hưởng ưu đãi sai và ban hành kết luận số 65/KL.CCT ngày 27/3/2014 với nội dung kết luận: “ Doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo Điều 8 Nghị định số 69/2008/NĐ.CP của Chính Phủ về chính sách khuyến khích xãhội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Tại thời điểm kiểm tra thuế chưa phát hiện số liệu kiểm tra chênh lệch với số liệu kê khai”. Từ kết luận số 65/KL.CCT của Chi cục Thuế huyện CT dẫn đến việc công ty Thủy Triều tiếp tục kêkhai thuế theo mức ưu đãi của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP. Như vậy, hành vi kêkhai sai thuế của công ty làkhách quan, không phải lỗi hoàn toàn của công ty (có phần trách nhiệm của Chi cục Thuế huyện CT ). Đồng thời, tại thông báo số 447/TB-KV.IX ngày 30/11/2016 của Kiểm toán khu vực IX chỉ kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nước năm 2015 đối với số tiền truy thu số tiền thuế vàkiến nghị phạt vi phạm hành chính.

Xét Quyết định 521 buộc công ty Thủy Triều khắc phục hậu quả nộp tiền chậm nộp mỗi ngày tính trên tổng số tiền thuế truy thu đến ngày ban hành quyết định xử lývi phạm về thuế với số tiền 76.811.325 đồng là chưa phù hợp, màcần phải xác định lại số ngày chậm nộp tiền thuế, tiền chậm nộp tiền thuế tính từ ngày Chi cục thuế huyện CT ban hành kết luận số 65/KL.CCT đến ngày ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, cần hủy một phần Quyết định số 521/QĐ.CCT đối với số tiền chậm nộp 76.811.325 đồng.

Xét án sơ thẩm đã xử là có căn cứ, đúng pháp luật nên cần được giữ nguyên.

Xét kháng cáo của Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều: Sau khi xét xử sơ thẩm, Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ nào mới so với hồ sơ cấp sơ thẩm thu thập, nên không có căn cứ xem xét. Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bị kiện là bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Án phíphúc thẩm: Người khởi kiện phải nộp.

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;

Bác kháng cáo của Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 32, Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 6; Điều 61 khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Khoản 1, 2 Điều 13 Nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính Phủ; Khoản 1, 2 Điều 10 Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng ché thi hành quyết định hành chính thuế;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH TM Thủy Triều yêu cầu:

Tuyên hủy một phần Quyết định số 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT ; Quyết định số 606/QĐ-CCT ngày 28/7/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT vàQuyết định số 1739/QĐ-CT ngày 15/9/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh TG ; Đối với tiền chậm nộp mỗi ngày tính trên tổng số tiền thuế truy thu đến ngày 15/6/2017 ban hành quyết định xử lývi phạm về thuế, với số tiền chậm nộp là76.811.325 đồng.

Đề nghị Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT ban hành quyết định bổ sung thay thế quyết định 521/QĐ-CCT ngày 15/6/2017 đã bị hủy.

2. Về án phí:

- Án phí sơ thẩm: Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, được hoàn lại 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 002208 ngày 26/10/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh TG .

Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện CT vàCục trưởng Cục thuế tỉnh TG phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.

- Án phíphúc thẩm: Công ty TNHH TM cấp nước Thủy Triều phải nộp án phíhành chính phúc thẩm 300.000đ, được trừ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 00613 ngày 17/8/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh TG .

Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, không bị kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, cóhiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự cóquyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm cóhiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chi cục thuế và quyết định giải quyết khiếu nại số 228/2019/HC-PT

Số hiệu:228/2019/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về