Bản án 22/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Công T (tên gọi khác: Nguyễn Trí T), sinh ngày 01/11/1998 tại tỉnh Cà Mau. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1979; Bị cáo chưa có vợ con. Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 15/11/2017 Nguyễn Công T bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Cà Mau xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 04/7/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/9/2019. Bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Hồ Quốc K, sinh năm 2002 (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: ấp Q, phường T, quận T, TP. Cần Thơ. Địa chỉ: ấp Đ, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

+ Chị Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Công T là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 11 giờ ngày 09/9/2019, T đang ở phòng trọ thuộc ấp Đ, xã P, huyện N thì Hồ Quốc K rủ Thức đến nhà Nguyễn Trường C ở ấp B, xã L để mua gà về đá, T đồng ý. T mượn xe mô tô (không biển số) của một người quen tên Nghĩa (không rõ nhân thân) để K chở T đến nhà của C mua gà. Khi đến nơi, T nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên vào trong nhà gặp C mua 300.000đ được 01 gói ma túy cất giấu bên trái túi quần của T. Còn K xem đá gà phía trước nhà của C. Sau đó, C mượn xe mô tô của K đi công việc. Khoảng 11 giờ 15 phút, Khi T và K đang ngồi trong nhà C thì Công an xã L nhận được tin báo của quần chúng nhân dân là một nhóm người nghi sử dụng ma túy nên Công an xã L đến kiểm tra hành chính và phát hiện gói ma túy trong túi quần bên trái của T nên Công an xã L tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối với Nguyễn Công T.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Nguyễn Công T.

Tại bản kết luận giám định số 1044/PC09-GĐMT ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,5388 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 16/CT.VKS-NT ngày 03/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Nguyễn Công T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Thức từ 16 đến 24 tháng tù.

+ Về biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo Nguyễn Công T không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Công T tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Các người làm chứng là anh Hồ Quốc K và chị Nguyễn Thị Bích N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, anh K và chị N đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 và Điều 293 tiến hành xét xử vắng mặt anh K và chị N.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Công T đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án.

Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 11 giờ 00 phút ngày 09/9/2019 tại ấp B, xã L, huyện N, Nguyễn Công T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,5388gam Methamphetamine thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo T là đối tượng nghiện ma túy và có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội mới do lỗi cố ý. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian dài nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, bị cáo khai không có việc làm và thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Công T có tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật (ma túy) còn lại sau giám định.

[8] Đối với Nguyễn Trương C là người đã bán ma túy cho T do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[9] Đối với Hồ Quốc K đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện N đã xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

[12] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Công T phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công T 02 (hai) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 09/9/2019.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong (mẫu vật ma túy còn lại sau giám định) số 1044/KLGĐ-PC09 ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Đồng Nai.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện N đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/02/2020).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Công T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-ST ngày 06/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về