Bản án 22/2019/HS-ST ngày 29/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 03 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo:

Tráng A V; tên gọi khác: Không, sinh năm 1976 tại huyện V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản L, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tráng A S, sinh năm 1949 và bà Giàng Thị S, sinh năm 1949; bị cáo có vợ là Giàng Thị Ch, sinh năm 1976 và 05 con; Tiền án: Không; tiền sự: không. Bị bắt giam giữ ngày 15/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Sồng A N, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Bản L, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 15/01/2019, tổ công tác công an huyện V phối hợp với Công an xã L tiến hành rà soát người nghiện ma túy tại bản L, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La, khi tổ công tác đến nhà Tráng A V. Qúa trình làm việc Tráng A V đã lấy từ trong túi áo khoác bên phải đang mặc trên người ra 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY. Tráng A V khai nhận đó ma túy của Tráng A V tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải Tráng A V đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V để điều tra làm rõ.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 05 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng số viên nén màu hồng đựng trong gói nilon màu xanh có khối lượng 0,54 gam, lấy 0,19 gam làm mẫu giám định ký hiệu V. Mẫu giám định V được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại ma túy, khối lượng ma túy.

Tại kết luận giám định số: 261 ngày 18/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu V là ma túy; loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,54 gam, loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 05/03/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Tráng A V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Tráng A V từ 18 (mười tám) tháng tù đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Tráng A V.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,35 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Tráng A V.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Tráng A V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Tráng A V khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 261 ngày 18/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người chứng kiến anh Sồng A N, Biên bản ghi lời khai, Bản tự khai, Biên bản hỏi cung bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 15/01/2019, bị cáo Tráng A V đã có hành vi tàng trữ 0,54 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Tráng A V phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định.

[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bản thân đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, sau khi hết thời gian cai nghiện vẫn không đoạn tuyệt với ma túy, nay lại tàng trữ ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo Tráng A V đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Tráng A V còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Tráng A V mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại khu vực xóm H, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra làm rõ để xử lý, buộc Tráng A V phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số ma túy thu giữ.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,35 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Tráng A V là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

1.Tuyên bố bị cáo Tráng A V phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Tráng A V 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2019 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,35 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Tráng A V.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 29/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về