Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 49/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn C, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp L1, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Bà Đinh Thị H, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp L1, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn ông C có mặt, bị đơn bà H vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 17/12/2018, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lê Văn C trình bày:

Ông Lê Văn C và bà Đinh Thị H chung sống với nhau, hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương vào ngày 06/8/2008. Trong quá trình chung sống, vợ chồng không hợp tính tình nên thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, thường xảy ra cãi vã, vợ chồng đã không còn sống chung từ đầu năm 2010 cho đến nay. Vì vậy, ông C làm đơn ly hôn với bà H.

Quá trình chung sống, ông C và bà H có 01 con chung tên Lê Anh T, sinh ngày 07/10/2009. Ông C yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Ông C không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Chứng cứ ông C giao nộp: Bản chính đơn khởi kiện ngày 18/12/2019; bản sao giấy chứng minh nhân dân và đơn xin xác nhận thường trú của ông C; bản trích lục giấy chứng nhận kết hôn; bản sao giấy khai sinh Lê Anh T; bản tự khai của ông C; đơn xin xác nhận ngày 04/3/2019 (bản chính).

Ngoài ra, ông C không có trình bày hay không cung cấp chứng cứ gì thêm.

 * Bị đơn bà H:

Bà H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia giải quyết vụ án nhưng bà H vắng mặt không có lý do nên không thu thập được ý kiến của bà H.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng phát biểu:

 Về thủ tục tố tụng: Quá trình tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt các văn bản tố tụng cho các bên đương sự. Tại phiên tòa, đã có mặt nguyên đơn ông C, bị đơn bà H được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Việc vắng mặt của bị đơn bà H là cố tình nên đề nghị xét xử vắng mặt đương sự theo các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn; về con chung: Giao con chung tên Lê Anh T cho ông C nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn ông C có mặt, bị đơn bà H đã được triệu tập đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng để bị đơn bà H thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ án. Việc bị đơn bà H vắng mặt tại phiên tòa là cố tình nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn ông C khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con đối với bị đơn bà H, kết quả xác minh xác định bị đơn bà H có hộ khẩu thường trú và vẫn đang cư trú tại ấp L1, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn và tranh chấp về nuôi con.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông C:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông C và bà H tự nguyện chung sống với nhau, hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương vào ngày 06/8/2008. Hôn nhân giữa ông C và bà H là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận. Ông C xác định quá trình chung sống ông C và bà H đã xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với bà H. Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ban lãnh đạo ấp L1 và công an xã L, xác định: Bà H vẫn còn cư trú tại địa phương nhưng không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án, giữa ông C và bà H xảy ra nhiều mâu thuẫn và đã không còn sống chung từ đầu năm 2010 cho đến nay. Bà H cố tình vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, cho thấy bà H đã không quan tâm đến việc hàn gắn tình cảm vợ chồng và mối quan hệ gia đình. Xét tình trạng hôn nhân giữa ông C và bà H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông C được ly hôn với bà H theo quy định tại Điều 19, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Quá trình chung sống, ông C và bà H có 01 con chung tên Lê Anh T, sinh ngày 07/10/2009. Ông C yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bà H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, cháu T hiện đang sinh sống với ông C có nguyện vọng được sinh sống với ông C, ông C có nơi cư trú, công việc và thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung, việc ông C không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con cho ông C nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của ông C về việc không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại các Điều 81,82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ông C không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Nguyên đơn ông C phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 19, 56, 81, 82, 83, 84, 85 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn C đối với bà Đinh Thị H về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Văn C được ly hôn với bà Đinh Thị H.

1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con:

Ông Lê Văn C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Lê Anh T, sinh ngày 07/10/2009. Ghi nhận sự tự nguyện của ông C về việc không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

2. Về án phí: Ông Lê Văn C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0012921 ngày 12 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương.

3. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 29/5/2019).

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về