Bản án 21/2020/DS-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 21/2020/DS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 55/2020/TLST-DS ngày 10/6/2020; Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2020/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 79/2020/QĐST-DS ngày 26 tháng 8 năm 2020; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng A.

+ Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T – Tổng giám đốc, Ngân hàng A. Địa chỉ: Số 169, phố Đ, phường L, quận M, thành phố Hà Nội.

+Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trịnh Bích T – Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng A, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

+ Bà Trịnh Bích T ủy quyền lại cho ông Nguyễn Hải B – Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng A, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

Địa chỉ: ấp A, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (Ông B có mặt).

- Bị đơn: Bà Kim Thị D, sinh năm 1958.

Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 5 năm 2020 của nguyên đơn Ngân hàng A, các chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà ngày hôm nay người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Hải B trình bày:

Ngân hàng A, chi nhánh phòng giao dịch huyện Châu Thành có cho bà Kim Thị D vay các khoản vay sau: - Khoản vay thứ 1: Ngày 30/12/2005, cho bà D vay số tiền 18.000.000 đồng, mục đích cho vay làm chi phí đi xuất khẩu lao động nước ngoài (Malaysia), lãi suất 0,65%/tháng, lãi suất quá hạn là 0,845%/tháng, thời hạn cho vay 03 năm, kỳ hạn trả nợ 06 tháng/lần (phân kỳ trả vốn và lãi). Tạm tính đến thời điểm làm đơn khởi kiện ngày 20/5/2020, đối với khoản vay này bà D còn nợ lại Ngân hàng là 28.451.000 đồng tiền vốn vay và lãi (Tiền vốn vay là 18.000.000 đồng, tiền lãi vay là 10.451.000 đồng).

- Khoản vay thứ 2: Ngày 20/12/2012, cho bà D vay số tiền 25.000.000 đồng, mục đích cho vay chăn nuôi heo, lãi suất 0,9%/tháng, lãi suất quá hạn 1,17%/tháng, thời hạn cho vay 03 năm, kỳ hạn trả nợ 12 tháng/lần (phân kỳ trả vốn và lãi). Tạm tính đến thời điểm làm đơn khởi kiện ngày 20/5/2020, đối với khoản vay này bà D còn nợ lại Ngân hàng là 34.912.500 đồng tiền vốn vay và tiền lãi (Tiền vốn vay là 25.000.000 đồng, tiền lãi vay là 9.912.500 đồng).

Tổng số tiền vốn vay của 02 khoản vay nêu trên bà D chưa thanh toán cho Ngân hàng Chính sách xã hội là 43.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn chưa thanh toán tạm tính đến ngày 20/5/2020 là 20.363.500 đồng, tính đến ngày xét xử sơ thẩm (07/9/2020) là 20.833.460 đồng. Tổng cộng vốn và lãi tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm của 02 khoản vay nêu trên là 63.833.460 đồng.

Nay đã quá thời hạn thanh toán tiền vốn và lãi vay theo các khế ước vay vốn của Ngân hàng A, mà giữa Phòng giao dịch huyện Châu Thành với bà Kim Thị D thỏa thuận, ký kết. Nên Ngân hàng A yêu cầu bà D phải có nghĩa vụ thanh toán tiền vốn và lãi vay nêu trên cho Ngân hàng để đảm bảo chính sách thu hồi nguồn vốn và thực hiện chính sách cho vay của Ngân hàng chính sách xã hội tại địa phương.

* Bị đơn bà Kim Thị D được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Giấy triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng đều vắng mặt, không có lý do và không có ý kiến trả lời cho Tòa án biết đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A về việc yêu cầu thanh toán tiền vốn và lãi vay nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến trình bày của đương sự. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt bị đơn bà Kim Thị D. Xét thấy, bà D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn bà Kim Thị D theo quy định.

[2] Về nội dung vụ án: Ngân hàng A, chi nhánh phòng giao dịch huyện Châu Thành có cho bà Kim Thị D vay 02 khoản vay, cụ thể như:

- Khoản vay thứ 1: Ngày 30/12/2005, cho bà D vay số tiền 18.000.000 đồng, mục đích cho vay làm chi phí đi xuất khẩu lao động nước ngoài (Malaysia), lãi suất 0,65%/tháng, lãi suất quá hạn là 0,845%/tháng, thời hạn cho vay 03 năm, kỳ hạn trả nợ 06 tháng/lần (phân kỳ trả vốn và lãi).

- Khoản vay thứ 2: Ngày 20/12/2012, cho bà D vay số tiền 25.000.000 đồng, mục đích cho vay chăn nuôi heo, lãi suất 0,9%/tháng, lãi suất quá hạn 1,17%/tháng, thời hạn cho vay 03 năm, kỳ hạn trả nợ 12 tháng/lần (phân kỳ trả vốn và lãi).

Sau khi vay số tiền 02 khoản vay nêu trên thì bà D không thực hiện đúng nghĩa vụ trả vốn và lãi vay theo đúng phân kỳ như các khế ước nợ đã ký với Ngân hàng A, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Nay đã quá thời hạn cho vay và thu hồi vốn, lãi nhưng bị đơn bà Kim Thị D không thanh toán tiền vốn và lãi theo các khế ước vay tiền của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng A khởi kiện bà D ra Tòa án để thu hồi tiền vốn vay và lãi để đảm bảo nguồn vốn vay nhằm thực hiện chính sách cho vay đối với các đối tượng chính sách xã hội theo chủ trương của Nhà nước tại địa phương. Từ đó, các bên phát sinh tranh chấp.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án và cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn Ngân hàng A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với bà Kim Thị D, yêu cầu thanh toán số tiền vốn vay của 02 khoản là 43.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn đến thời điểm xét xử sơ thẩm hôm nay là 20.833.460 đồng. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn nộp cho Tòa án như sổ vay vốn Ngân hàng A, mã khách hàng 6200020470, Sổ lưu tờ rời theo dõi cho vay, thu nợ, dư nợ người vay bà Kim Thị D; Các Giấy đề nghị vay vốn, kiêm phương án sử dụng vốn vay ngày 27/12/2005 và ngày 16/12/2012, (bút lục số 07 đến 11) được Tòa án công khai chứng cứ và bị đơn bà D không có ý kiến gì phản đối các tài liệu, chứng cứ nêu trên của nguyên đơn nộp cho Tòa án có thể hiện chữ ký, nhận số tiền vay của bị đơn bà Kim Thị D, nên đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 và Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử, có đủ căn cứ xác định bị đơn bà Kim Thị D có vay của Ngân hàng A, chi nhánh phòng giao dịch huyện Châu Thành số tiền vốn vay của 02 khoản nêu trên là 43.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn tính tạm tính đến ngày 20/5/2020 còn nợ lại là 20.363.500 đồng và đến ngày xét xử sơ thẩm là 20.833.460 đồng, từ khi bà Kim Thị D vay của Ngân hàng 02 khoản vay nêu trên chỉ thanh toán được số tiền lãi tổng cộng là 10.602.520 đồng, chưa thanh toán được khoản tiền vốn. Tổng số tiền vốn và lãi của 02 khoản vay nêu trên tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 63.833.460 đồng.

Do đã quá thời hạn thanh toán số tiền vốn và tiền lãi vay, bị đơn bà Kim Thị D đã vi phạm tại điểm c mục 2.2 khoản 2 về quyền và nghĩa vụ của bên vay quy định trong sổ vay vốn mà giữa hai bên thỏa thuận ký kết nên Ngân hàng A khởi kiện là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

[4]Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Kim Thị D là người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch (Do bà D không phải là hộ nghèo, cận nghèo, không có đơn xin miễn án phí do thuộc đối tượng trên 60 tuổi nên không được xem xét miễn nộp án phí, lệ phí Tòa án theo quy định) tương ứng số tiền là 3.191.673 đồng do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1,3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng: Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

1./ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng A đối với bị đơn bà Kim Thị D, yêu cầu thanh toán tiền vốn và lãi vay, tổng số tiền là 63.833.460 đồng.

2./ Buộc bà Kim Thị D có nghĩa vụ thanh toán số tiền vốn và lãi vay (tính đến ngày xét xử sơ thẩm) cho Ngân hàng A là 63.833.460 đồng (Sáu mươi ba triệu tám trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm sáu mươi đồng). Trong đó, tiền vốn vay của 02 khoản vay là 43.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 07/9/2020 là 20.833.460 đồng.

Ngoài ra, kể từ ngày 08/9/2020 bà Kim Thị D còn phải tiếp tục chịu thêm khoản tiền lãi chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định trong khế ước vay vốn tương ứng với từng khoản vay của từng kế ước vay mà giữa hai bên đã thỏa thuận, ký kết cho đến khi thi hành xong bản án.

3./ Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Kim Thị D là người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng số tiền là 3.191.673 đồng.

4./ Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự, thủ tục phúc thẩm. Đối với bà Kim Thị D thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

5./ Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/DS-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:21/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về