Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 6 năm 2019 tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 162/2019/TLST- HNGĐ, ngày 26 tháng 3 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn,” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXX- ST, ngày 14 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Đình H, sinh năm 1969.

Đa chỉ: Khu phố 2, phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Bị đơn: Bà Tạ Thị S, sinh năm 1974.

Đa chỉ: Khu phố 5, phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

(Nguyên đơn và bị đơn đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn ông Lê Đình H trình bày:

Ông và bà Tạ Thị S chung sống với nhau năm 1997 là hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi. Đến năm 2011 thì vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm.

Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống tại Khu phố 5, phường Đ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm.

Vợ chồng chung sống không hạnh phúc do không hợp nhau. Ông và bà Tạ Thị S đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Hiện ông đang sống tại Khu phố 2, phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Nay ông đã hết tình cảm với bà Tạ Thị S và không còn khả năng hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Tạ Thị S.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thu H1, sinh năm 1998. Con chung đã trưởng thành, trên 18 tuổi và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân.

Về tài sản chung & nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên toà hôm nay bà Tạ Thị S trình bày:

Bà xác nhận về thời gian chung sống và thời điểm đăng ký kết hôn như ông Lê Đình H trình bày là đúng. Tuy nhiên, phần trình bày của ông H về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng thì bà thấy ông H khai không đúng sự thật. Hiện ông H đã có người phụ nữ khác nên mới ruồng rẫy vợ. Bà biết tình cảm vợ chồng giữa bà và ông H là không thể hàn gắn được nhưng bà không đồng ý ly hôn. Bà xác định chỉ khi nào ông H ký giấy tờ về việc cho nhà đất cho con gái Lê Thu H1 thì bà mới đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thu H1, sinh năm 1998. Con chung đã trưởng thành, trên 18 tuổi và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân.

Về tài sản chung & nợ chung: không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc cấp, tống đạt các giấy tờ cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm, các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình.

Về quan hệ hôn nhân: Đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Ông Lê Đình H được ly hôn Bà Tạ Thị S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, sau khi nghe kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện là “ly hôn”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, được quy định tại khoản 1 điều 28 và điểm a, khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Đình H và Bà Tạ Thị S chung sống với nhau là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc có tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. Theo giấy chứng nhận kết hôn số: 26, ngày 06/4/2011 của UBND phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Ông Lê Đình H cho rằng: cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc do không hợp nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được.

Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa hôm nay bà Tạ Thị S cũng thừa nhận vợ chồng sống ly thân đã lâu. Ông Lê Đình H hiện nay đã có người phụ nữ khác nên không còn sống chung với bà nữa. Bà biết tình cảm vợ chồng giữa bà và ông Lê Đình H là không thể hàn gắn được nhưng bà không đồng ý ly hôn. Bà xác định chỉ khi nào ông Lê Đình H ký giấy tờ về việc cho nhà đất cho con gái Lê Thu H1 thì bà mới đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Lê Đình H. Điều đó thể hiện rõ mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Lê Đình H và bà Tạ Thị S là có thật và bà Tạ Thị S cũng không còn tình cảm gì với ông Lê Đình H nhưng không đồng ý ly hôn vì muốn ông Lê Đình H phải thỏa mãn các điều kiện mà bà đưa ra mà thôi. Hơn nữa, tại biên bản xác minh ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ông Nguyễn Ngọc H2 trưởng ban quản lý Khu phố 5, phường Đ xác nhận: “Bà Tạ Thị S có hộ khẩu thường trú tại khu phố 5, phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Trong cuộc sống chung hàng ngày vợ chồng ông Lê Đình H và bà S nhiều lần xảy ra mâu thuẫn và có nhờ ban quản lý Khu phố 5 Hòa giải nhưng không thành công”.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Lê Đình H và bà Tạ Thị S đã thật sự gay gắt làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Ông Lê Đình H yêu cầu xin được ly hôn với bà Tạ Thị S là có cơ sở, phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về quan hệ con cái: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thu H1, sinh năm 1998. Con chung đã trưởng thành, trên 18 tuổi và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Lê Đình H và bà Tạ Thị S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập tới.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn ông Lê Đình H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn với số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[6] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự; khoản 1, điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Lê Đình H được ly hôn bà Tạ Thị S.

2. Về án phí: Ông Lê Đình H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số: 00183326, ngày 19/03/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang -Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Ông Lê Đình H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn ông Lê Đình H và bị đơn bà Tạ Thị S. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 28/06/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về