Bản án 207/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 207/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 533/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 429/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 408/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn: Bà Lâm Thị Y, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Trần Văn T trình bày, sau thời gian quen biết và tìm hiểu, ông T và bà Lâm Thị Y chung sống với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh An Giang vào ngày 10/3/2009. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Trần Thị Ngọc T, sinh ngày 29/10/2009; không có tài sản chung và nợ chung.

Vào khoảng cuối năm 2019, vợ chồng thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống và không còn sống chung từ thời gian này cho đến nay.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên ông T yêu cầu được ly hôn với bà Y; yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Thị Ngọc T, không yêu cầu bà Y cấp dưỡng nuôi con; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện gồm: tờ tự khai ngày 01/7/2020 của ông Trần Văn T; bản sao Trích lục kết hôn số 258/TLKH-BS ngày 19/7/2017 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh An Giang cấp (số đăng ký 34, ngày 10/3/2009); bản sao Trích lục khai sinh số 258/TLKS-BS ngày 19/7/2017 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh An Giang cấp đối với Trần Thị Ngọc T, sinh ngày 29/10/2009 (số đăng ký 453 ngày 21/11/2009).

- Bị đơn bà Lâm Thị Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, ông T không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, ông T và bà Y chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa ông T, bà Y hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và không còn sống chung từ tháng 01/2020 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nên ông T yêu cầu ly hôn với bà Y. Bà Y không có ý kiến phản hồi. Ông T, bà Y không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn hạnh phúc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T đối với bà Y theo Điều 56 .Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của ông T, giao cháu T cho ông T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, do ông T không yêu cầu bà Y cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung, đề nghị không đề cập giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Ông Trần Văn T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Lâm Thị Y. Đồng thời, bà Y cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bà Lâm Thị Y đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Y theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Ông T và bà Y tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa ông T, bà Y là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Ông T xác định, vợ chồng mâu thuẫn từ khoảng cuối 2019 cho đến nay do bất đồng quan điểm sống và ông T, bà Y không còn sống chung từ tháng 01/2020 cho đến nay.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, ông T và bà Y không còn sống chung từ tháng 01/2020. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho bà Y nhưng bà Y không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của ông T. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa ông T, bà Y là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T đối với bà Y theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Ông T xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Trần Thị Ngọc T, sinh ngày 29/10/2009. Ông T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T.

Xét thấy, cháu T đang được ông T chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định. Đồng thời, theo biên bản ghi ý kiến ngày 20/7/2020 do cán bộ Tòa án lập, cháu T có nguyện vọng được sống cùng ông T trong trường hợp ông T, bà Y ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu T, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu T cho ông T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do ông T không yêu cầu bà Y cấp dưỡng nuôi cháu T nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Ông T xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Ông T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bà Y không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 273 Bộ luật T tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T.

1. Về hôn nhân: Ông Trần Văn T được ly hôn với bà Lâm Thị Y.

Giấy chứng nhận kết hôn 34 ngày 10/3/2009 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho ông Trần Văn T và bà Lâm Thị Y không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Ông Trần Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Thị Ngọc T, sinh ngày 29/10/2009. Bà Lâm Thị Y không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Ông Trần Văn T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Lâm Thị Y trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí sơ thẩm:

Ông Trần Văn T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0008641 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 01 tháng 7 năm 2020; ông Trần Văn T đã nộp đủ án phí.

Bà Lâm Thị Y không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Trần Văn T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Lâm Thị Y được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 207/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:207/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về