Bản án 2058/2017/HNGĐ-ST ngày 20/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 2058/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 09 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1177/2016/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 07 năm 2016 về tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 339/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 08 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 249/2017/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 08 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Mộng D Sinh năm: 1977

Địa chỉ: 168/17 (số mới 70/31) đường B, phường X, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T Sinh năm: 1974

Địa chỉ: 70/48 đường B, phường X, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/06/2016 và các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án có nội dung như sau:

Bà Trương Thị Mộng D và ông Nguyễn Văn T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào năm 1998 tại Ủy ban nhân dân phường X quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Đến năm 2006, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp được với nhau, thường xuyên gây cãi với nhau, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về lối sống và cách sống. Mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn được, cả hai đã sống ly thân từ cuối năm 2006. Vào tháng 10/2015 bà D đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhưng sau đó rút đơn để vợ chồng có thời gian hòa giải hàn gắn, nhưng sau đó không hàn gắn được. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà Trương Thị Mộng D yêu cầu toà án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Về con chung: có hai con chung tên Nguyễn Trương Trung T1 sinh ngày 04/04/1999 đã đủ tuổi trưởng thành và Nguyễn Trương Thanh T2 sinh ngày 08/02/2004, bà D yêu cầu được nuôi con Nguyễn Trương Thanh T2 vì từ trước đến nay con vẫn do bà trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Do có đủ điều kiện và khả năng nuôi con nên bà D không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu toà án giải quyết.

Bị đơn là ông Nguyễn Văn T không có ý kiến trình bày vì không đến Tòa theo các lần triệu tập của Tòa án để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như không gửi văn bản nêu ý kiến và các chứng cứ tài liệu kèm theo.

Ngày 11/09/2017, bà Trương Thị Mộng D có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên ý kiến yêu cầu như trình bày nêu trên, ngoài ra không có ý kiến yêu cầu gì khác.

Bị đơn Nguyễn Văn T đến phiên tòa lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu ý kiến:

- về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng trình tự, quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

- về việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Bị đơn từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử bị đơn mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không chấp hành và chưa thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

- về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các bên trong vụ án là tranh chấp về ly hôn, bị đơn Nguyễn Văn T cư trú tại quận Bình Thạnh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về thủ tục:

Ngày 11/09/2017 nguyên đơn Trương Thị Mộng D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xét thấy Đơn đề nghị xét xử vắng mặt khi Tòa án mở phiên tòa của bà D là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn và tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

Sau khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, bị đơn Nguyễn Văn T đã được Toà án nhiều lần thông báo, triệu tập đến Toà để giải quyết vụ án. Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng được thực hiện hợp lệ, đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự nhưng đến phiên tòa lần hai ông T vẫn vắng mặt không có lý do.

Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: bà Trương Thị Mộng D và ông Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn năm 1998 tại Ủy ban nhân dân phường X quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 126, quyển số 01/1998 ngày 10 tháng 10 năm 1998, nên quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông T là hôn nhân hợp pháp, được xác lập trên cơ sở tự nguyện.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì trong quá trình chung sống bà D và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp được với nhau, thường xuyên gây cãi với nhau, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về lối sống và cách sống. Vào tháng 10/2015 bà D đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án, sau đó rút đơn (có Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 1165/2016/QĐST-HNGĐ ngày 23/06/2016 của Tòa án nhận dân quận Bình Thạnh) để vợ chồng có thời gian hàn gắn nhưng không hàn gắn được. Mâu thuẫn kéo dài, hai bên không thể hàn gắn được nên đã sống ly thân từ năm 2006 đến nay.

Sau khi tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập ông Nguyễn Văn T lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử nhưng đến lần thứ hai mở phiên tòa ông T vẫn không có mặt, không có ý kiến phản hồi cũng như không cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh mong muốn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân của mình. Việc này thể hiện ý thức chấp hành pháp luật không nghiêm, xem thường pháp luật, đồng thời ông T đã tự tước bỏ quyền trình bày nhằm bảo vệ quyền lợi của mình tại tòa và thể hiện ông không quan tâm đến việc duy trì quan hệ hôn nhân của mình.

Xét thấy quan hệ hôn nhận hạnh phúc bền vững phải dựa trên cơ sở tình cảm tự nguyện, thiện chí của vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình. Nhưng tình trạng hôn nhân giữa bà D và ông T đã trở nên trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó yêu cầu ly hôn của nguyên đơn Trương Thị Mộng D là có căn cứ chấp nhận.

- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: trong thời kỳ hôn nhân bà D và ông T có hai con chung tên Nguyễn Trương Trung T1 sinh ngày 04/04/1999 và Nguyễn Trương Thanh T2 sinh ngày 08/02/2004. Con chung tên Nguyễn Trương Trung T đã đủ tuổi trưởng thành nên bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con tên Nguyễn Trương Thanh T2, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con do bà D có đủ điều kiện và khả năng nuôi con.

Xét thấy ông T đã được Tòa án triệu tập nhiều lần và đến lần thứ hai khi mở phiên tòa vẫn không có mặt, điều này thể hiện ông T tự tước bỏ quyền và trách nhiệm trình bày yêu cầu về nuôi con. Trẻ Nguyễn Trương Thanh T2 hiện nay vẫn do bà D nuôi dưỡng, chăm sóc và trẻ có nguyện vọng được ở với mẹ, nên việc tiếp tục giao cho bà Trương Thị Mộng D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và đảm bảo lợi ích của trẻ. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con của bà D đối với trẻ Nguyễn Trương Thanh T2. Ghi nhận việc bà D đủ điều kiện và khả năng nuôi con nên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: nguyên đơn xác định không có và không yêu cầu tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Nguyên đơn Trương Thị Mộng D phải chịu tiền án phí là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ Luật tố tụng dân sự và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Luật thi hành án dân sự, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL- UBTVQH12 ngày 27/02/2009 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – bà Trương Thị Mộng D.

- Về hôn nhân: bà Trương Thị Mộng D được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

- Về con chung: con chung tên Nguyễn Trương Trung T1 sinh ngày 04/04/1999 đã đủ tuổi trưởng thành. Giao cho bà Trương Thị Mộng D trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trương Thanh T2 sinh ngày 08/02/2004. Ghi nhận việc bà D đủ điều kiện và khả năng nuôi con nên không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, khi có lý do chính đáng một hoặc cả hai bên được quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc tiền cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu tòa án giải quyết, nên tòa án không xem xét giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Trương Thị Mộng D phải chịu án phí là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng bà D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2014/0008176 ngày 01/07/2016 của Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thạnh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 12 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự không có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 2058/2017/HNGĐ-ST ngày 20/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:2058/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về